Tính chính đáng cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay

TS. NGUYỄN VĂN QUANG
Học viện Chính trị khu vực III
23:21, ngày 13-07-2022

TCCS - Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được lịch sử chứng minh và nhân dân thừa nhận. Đứng trước bối cảnh xã hội có nhiều thay đổi và đầy thách thức như hiện nay, đảng cầm quyền phải không ngừng tăng cường xây dựng, củng cố và nâng cao tính chính đáng của mình để đoàn kết các lực lượng, giai tầng trong xã hội đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp mặt đại biểu người có uy tín, nhân sĩ trí thức, doanh nhân dân tộc thiểu số tiêu biểu toàn quốc _Ảnh: Tư liệu

Tính chính đáng của đảng cầm quyền

Theo cách tiếp cận của chính trị học mác - xít, để tồn tại, con người phải có tổ chức quyền lực, nhưng khi đã có tổ chức quyền lực (đặc biệt là quyền lực nhà nước) thì con người lại không ngừng đấu tranh chống lại sự cưỡng bức của quyền lực và đòi lại quyền lực nguyên thủy của mình. Về căn bản, nếu quyền lực không được sử dụng đúng mục đích sẽ gây ra khuynh hướng chống đối và do vậy, vấn đề đặt ra đối với chủ thể cầm quyền (chi phối quyền lực nhà nước) ở đây là làm sao quyền lực thực sự phục vụ cho lợi ích của nhân dân.

Nói cách khác, khủng hoảng chính trị xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sự mất tin tưởng vào khả năng cầm quyền, sự không chấp nhận tính đại diện của nhà nước hoặc tổng quát hơn là khủng hoảng về tính chính đáng chính trị. Vì vậy, chủ thể của quyền lực luôn phải tìm cách để làm thế nào cho đa số nhân dân chấp nhận mình, bằng lý lẽ và lương tri - tức là thiết lập được tính chính đáng.

Có thể nói, tính chính đáng chính trị là sự chấp nhận và ủng hộ của người dân đối với một chủ thể cầm quyền. Trong một xã hội dân chủ, tính chính đáng được coi là vấn đề hệ trọng, liên quan trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của thực thi quyền lực chính trị và cụ thể hơn là hiệu lực, hiệu quả thực thi của một mệnh lệnh, chỉ thị phát ra từ các cơ quan quyền lực của chủ thể cầm quyền. Nếu chủ thể cầm quyền thiếu tính chính đáng, các mệnh lệnh từ bộ máy quyền lực sẽ gặp phải sự chống đối, kháng cự từ những công dân; ngược lại, nếu chủ thể cầm quyền có được tính chính đáng cao, khi đó, nó sẽ đạt được hiệu lực, hiệu quả trong thực thi quyền lực và dĩ nhiên là giữ được sự ổn định chính trị - xã hội.

Như vậy, tính chính đáng chính trị tạo nên sức mạnh, hiệu lực và hiệu quả trong thực thi quyền lực của chủ thể cầm quyền. Cấu trúc của tính chính đáng cầm quyền của của một chủ thể gồm 4 yếu tố: Tính tiên phong của hệ giá trị; tính hợp lệ, hợp pháp trong giành, giữ và thực thi quyền lực; tính hiệu lực và hiệu quả trong cầm quyền; tính liêm chính, trong sạch của chủ thể cầm quyền.

Tính chính đáng cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn được nhân dân tin tưởng, thừa nhận là đảng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Quyền lực nhà nước là quyền lực công, là công cụ để quản lý, dẫn dắt và phục vụ xã hội, bảo đảm vai trò cầm quyền của Đảng. Vì vậy, không chỉ chính đáng trong giành chính quyền, Đảng muốn duy trì tính chính đáng trong việc cầm quyền, bởi nó chính là cơ sở, nền tảng để người dân tiếp tục đặt niềm tin vào Đảng, đi theo Đảng, tự nguyện phục tùng sự lãnh đạo của Đảng để Đảng đạt được hiệu lực và hiệu quả trong cầm quyền. Vì là một đảng duy nhất cầm quyền, cho nên trong mỗi giai đoạn cầm quyền, tính chính đáng cao hay thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Đảng đối với nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và mục tiêu mà chúng ta đang theo đuổi: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Với tư cách là một chủ thể chính trị, một chủ thể cầm quyền duy nhất ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam muốn củng cố và nâng cao được tính chính đáng trong cầm quyền thì phải quan tâm đến tính chính đáng từ khi mới nắm quyền, tức khâu phát sinh quyền lực và trong suốt giai đoạn duy trì quyền lãnh đạo của mình. Có 4 yếu tố chính tạo nên tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng:

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bảo đảm tính tiên phong trong hệ giá trị của mình.

Cần phải khẳng định rằng, hệ giá trị của Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn và kiên định từ khi thành lập và phát triển đến nay là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Hệ giá trị này là tiền đề tư tưởng ảnh hưởng đến tính chính đáng về mặt lý luận của Đảng. Để có được tính chính đáng về mặt lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, bổ sung và phát triển tính tiên phong trong hệ giá trị của mình.

Khi đã có hệ tư tưởng nền tảng mang tính cách mạng, khoa học, tiên phong, tiến bộ (vì dân, bình đẳng, công bằng, tự do...), Đảng không ngừng truyền bá hệ tư tưởng vào nhân dân, trở thành hệ tư tưởng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội, định hướng và dẫn dắt sự phát triển của đất nước. Nhờ vậy, Đảng đã tập hợp được đông đảo nhân dân tin theo Đảng để giành chính quyền, xác lập vai trò cầm quyền của Đảng - đây là yếu tố quan trọng đầu tiên để Đảng Cộng sản Việt Nam có được tính chính đáng trong cầm quyền. Trong quá trình cầm quyền, Đảng không ngừng bổ sung, phát triển hệ tư tưởng nền tảng để xây dựng Cương lĩnh, đường lối, chính sách phù hợp với từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể, để người dân tiếp tục chấp nhận, tin tưởng vào sự lãnh đạo, cầm quyền nhằm củng cố và duy trì tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng.

Thứ hai, tính hợp lý, hợp pháp trong cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đây chính là cơ sở của tính chính đáng trong quá trình giành, giữ và thực thi quyền lực của Đảng. Vì là đảng duy nhất cầm quyền, tính hợp pháp trong cầm quyền của Đảng không chỉ là các quy định trong Cương lĩnh, điều lệ, mà vị trí, vai trò, cầm quyền còn được khẳng định trong các bản Hiến pháp của Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam”(1)Điều lệ Đảng quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy”. Các bản Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều có điều quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam … là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(2). Đây là những khẳng định rất quan trọng bảo đảm cho tính hợp pháp trong cầm quyền của Đảng.

Tính hợp pháp trong cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là cách thức tạo dựng các cơ quan nhà nước với tư cách là công cụ quyền lực, công cụ bảo đảm quyền lực chính trị của Đảng được khách quan hóa trong quyền lực công - tức quyền lực nhà nước thông qua những thủ tục, thể lệ, quy trình, cốt lõi là nhà nước hóa các cơ cấu chính trị. Trong suốt quá trình cầm quyền của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng xây dựng đội ngũ cán bộ ngày một lớn mạnh, nhằm giới thiệu cho nhân dân những đảng viên ưu tú để nhân dân bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Trải qua hơn 92 năm ra đời, hơn 77 năm cầm quyền, ngay từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946 đến cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, đảng viên được Đảng giới thiệu ra ứng cử luôn chiếm đa số trong các cơ quan quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Trong suốt những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cơ quan nhà nước đã không ngừng hoàn thiện thể chế bầu cử, ứng cử nhằm mở rộng dân chủ để các cuộc bầu cử ngày càng chặt chẽ, dân chủ, tạo sự đồng thuận, tin tưởng của nhân dân vào sự lựa chọn của mình. Đảng viên của Đảng được nhân dân lựa chọn sẽ là những nhân tố hạt nhân để duy trì, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự cầm quyền của Đảng và bảo đảm cho ý chí của Đảng được thể chế hóa một cách nhanh chóng, đầy đủ trong hệ thống chính sách để đến được với nhân dân.

Đồng bào tìm hiểu thông tin bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 _Nguồn: toquoc.vn

Thứ ba, tính hiệu lực, hiệu quả trong quá trình lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong quá trình cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc tiếp thu, củng cố, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, mà còn không ngừng nâng cao năng lực cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, thể chế hóa các lý tưởng chính trị của Đảng thành các chuẩn mực pháp quyền (Hiến pháp và pháp luật) để thực thi trên quy mô toàn xã hội thông qua các cơ quan nhà nước. Muốn bảo đảm được tính chính đáng trong cầm quyền, các mệnh lệnh được đưa ra từ các cơ quan nhà nước với tư cách là công cụ của đảng cầm quyền phải được nhân dân tuân thủ một cách tự nguyện, đi vào cuộc sống.

Nhà nước với tư cách là công cụ cầm quyền của Đảng chỉ được xã hội thừa nhận là chính đáng khi tổ chức quyền lực này thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân thông qua hệ thống chính sách. Toàn bộ hoạt động của đảng cầm quyền đều xoay quanh hoạt động của Nhà nước, xoay quanh sản phẩm đầu ra của Nhà nước là các chính sách công. Đây là vấn đề phức tạp, liên quan đến giải quyết các quan hệ lợi ích khác nhau trong xã hội, đặc biệt là quyền và trách nhiệm của các cơ quan hoạch định chính sách, năng lực và tầm nhìn của người đứng đầu các cơ quan hoạch định chính sách; tính công khai, minh bạch trong việc cung cấp thông tin đến công chúng; cơ chế và năng lực giám sát, phản biện của các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách… Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, Đảng luôn chú trọng đến các khâu: Tính đúng đắn, tính khả thi của mục tiêu chính trị - tức là trình độ, năng lực, quyết sách của đảng cầm quyền; tính đầy đủ, đồng bộ, khoa học và tương đối ổn định của hệ thống Hiến pháp, pháp luật; trình độ, năng lực xây dựng và hoàn thiện thể chế của bộ máy nhà nước, mà trước hết là Quốc hội; quyền năng và năng lực thực tế của bộ máy hành pháp; tính kịp thời, đúng đắn trong việc phát hiện và tính nghiêm minh trong việc xử lý hành vi sai phạm. Đây cũng là năng lực thực tế của đội ngũ làm cơ quan tư pháp và tính độc lập tương đối của cơ quan tư pháp.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã đánh đuổi hai đế quốc xâm lược giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Đặc biệt, trong hơn 35 năm đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước, nhân dân đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(3).

Thứ tư, duy trì mức độ liêm chính, trong sạch của đảng cầm quyền.

Trong thời kỳ kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân không có mục tiêu nào lớn hơn, thiêng liêng hơn là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Vì thế, chủ nghĩa cá nhân gần như không có cơ hội để nảy nở và phát triển. Tuy nhiên, khi đất nước chuyển sang giai đoạn xây dựng và phát triển, nhất là từ khi phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người có cơ hội trỗi dậy. Thực tế cho thấy, cái khó chiến thắng nhất trong mỗi con người là chủ nghĩa cá nhân. Vì, “chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy”(4). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn, “trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước…”(5). Người còn cho rằng, một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn, tuyên truyền. Vì vậy, uy tín của Đảng trước nhân dân sẽ phụ thuộc rất lớn vào uy tín của đội ngũ cán bộ của Đảng. Cho nên, ngay từ những năm đầu giành được chính quyền cho đến nay, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII vừa qua, Đảng ta luôn chú trọng đến giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và không ngừng đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Do vậy, nhiều vấn đề phức tạp được đặt ra và thực hiện từ những năm trước, nhưng hiệu quả còn thấp, thì trong những nhiệm kỳ gần đây đã có chuyển biến tích cực. Công tác kiểm tra, giám sát và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được triển khai quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt những kết quả cụ thể, rõ rệt. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử nghiêm minh, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng tình ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn(6). Điều này đã chứng minh được rằng, khi chúng ta có được một đảng cầm quyền liêm chính, trong sạch, tất cả vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân thì khi đó niềm tin của nhân dân sẽ được củng cố và nâng cao, tính chính đáng của đảng cầm quyền được khẳng định, không có thế lực nào có thể chống phá được.

Một số nguy cơ đối với tính chính đáng cầm quyền của Đảng

Trước tiên, nguy cơ từ tính tiên phong trong hệ giá trị của Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức đúng hơn và bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên một loạt vấn đề, chẳng hạn: vấn đề mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, sở hữu tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,... Nhờ đó, tư duy lý luận của Đảng ngày càng sâu sắc, nhận thức đúng, thực chất hơn những tư tưởng của các nhà kinh điển mác-xít, đồng thời vận dụng, phát triển cho phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ, như: Xác định chặng đường, bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; nội dung, hình thái và hệ tiêu chí đo lường hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, nước phát triển, thu nhập cao; lý luận về một đảng duy nhất cầm quyền trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị...

Từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, các thành tựu trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã làm cho hệ giá trị và các chuẩn mực có sự chuyển biến rất lớn. Điều này đặt ra nhiều thách thức cho công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Đảng. Nếu không phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam thì rất dễ dẫn đến nguy cơ lạc hậu về lý luận. Đặc biệt, một số công cụ (tổ chức hệ thống chính trị, tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước, hệ thống Hiến pháp và pháp luật) và phương thức lãnh đạo của Đảng nếu không có những chuyển biến kịp thời nhằm đáp ứng được đòi hỏi của những biến chuyển nhanh chóng trong thời đại mới, có thể sẽ là những rào cản rất lớn cho sự phát triển.

Thứ hai, nguy cơ đến từ hiệu quả của một số quyết sách của Đảng và Nhà nước.

Từ Đại hội VI đến nay, nhờ bước đột phá từ đổi mới tư duy, Đảng ta đã đề ra đường lối, chính sách quan trọng trong cả kinh tế và chính trị, vì lợi ích chung, nhờ đó thúc đẩy được sự phát triển, tạo được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay, một số chủ trương, đường lối của Đảng chưa được triển khai thực hiện tốt, chất lượng, hiệu quả chưa cao, làm suy giảm niềm tin trong một bộ phận nhân dân. Điều này đến từ các nguyên nhân: 1- Tính phản biện trong một số quyết sách chưa cao; 2- Việc thể chế hóa và tổ chức thực thi chủ trương, đường lối vẫn là một khâu yếu.

Thứ ba, nguy cơ đến từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu,… ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả một số cán bộ cao cấp của Đảng.

Nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII và XIII khẳng định, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Nếu những vấn đề này không được khắc phục, sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, làm xói mòn tính chính đáng của đảng cầm quyền.

Giải pháp nâng cao tính chính đáng cầm quyền của Đảng

Một là, tiếp tục nâng cao tính dân chủ và khoa học trong quy trình hình thành các quyết sách của Đảng.

Những quyết sách quan trọng cần được soạn thảo từ cơ quan tham mưu, tập hợp đội ngũ có trí tuệ cao của Đảng và cần phải được thảo luận một cách kỹ càng; tăng cường ý thức chủ thể và tinh thần trách nhiệm, ý thức về sứ mệnh của đảng viên trong xây dựng Đảng. Để nâng cao tính khả thi của quyết sách, cần “lựa chọn đúng người và kiểm tra công việc thực hiện”, là phải “thiết lập chế độ trách nhiệm cá nhân đối với công việc đang làm”(7).

Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam, quyền lực chính trị là thống nhất. Vấn đề là, phương thức thực thi quyền lực chính trị của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thông qua Nhà nước. Qua hơn 35 năm đổi mới, thực tiễn cầm quyền của Đảng đã được thể hiện cụ thể theo hướng này. Vấn đề đặt ra hiện nay là, một mặt phải vừa bảo đảm sự thống nhất giữa sự lãnh đạo của Đảng và tổ chức thực thi quyền lực quản lý của Nhà nước; mặt khác, phải phân biệt những quyền hạn của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, tránh tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đùn đẩy trách nhiệm mỗi khi có hậu quả xảy ra. Đây không chỉ là xuất phát từ sự khác nhau trong phương thức thực thi quyền lực của Đảng và quyền lực của Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà còn trực tiếp liên quan đến tính minh bạch, rõ ràng, bền vững của các cơ sở hợp pháp cho vị trí, vai trò của đảng cầm quyền.

Ba là, tăng cường tính gương mẫu, nêu gương của đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là tăng cường kiểm soát quyền lực.

Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng hướng dẫn đồng bào kỹ thuật trồng lúa nước _Ảnh: Tư liệu

Gương mẫu, nêu gương của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý như một phương thức lãnh đạo của Đảng. Việc xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý tinh thông về chuyên môn, nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức là một yêu cầu quan trọng nhằm củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, tình trạng lạm quyền, chuyên quyền, quan liêu, xa dân, tham nhũng, hư hỏng, thậm chí độc đoán của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên còn xảy ra ở nhiều nơi. Nếu không khắc phục được sẽ làm mất niềm tin của nhân dân, làm xói mòn tính chính đáng cầm quyền của Đảng. Nguyên nhân chính là, quyền lực của Đảng chưa được giám sát, kiểm soát một cách chặt chẽ và hiệu quả.

Do vậy, về lâu dài, chúng ta phải tạo ra được một cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực của Đảng mang tính khoa học và có hiệu quả. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định: Phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế và thể chế. Có như vậy, vấn đề lạm dụng, tha hóa quyền lực của một bộ phận cán bộ có chức, có quyền mới bị kìm chế nhằm củng cố tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng. Muốn vậy, cần phải: 1- Bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị; 2- Tăng cường các thiết chế giám sát, kiểm soát quyền lực một cách chặt chẽ đối với những cá nhân có quyền lực trong Đảng và Nhà nước; 3- Thực hiện triệt để và nghiêm túc các quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII, kết hợp với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; 4- Có kế hoạch cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng, thử thách cán bộ được quy hoạch, nhất là cán bộ cấp chiến lược để tạo ra các thế hệ lãnh đạo có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và tín nhiệm trước nhân dân./.

---------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 88
(2) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 9
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 104
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr. 602
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 16
(6) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 21 - 22
(7) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 44, tr. 452