Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội năm 2015
Trước những biến động phức tạp của kinh tế thế giới và những khó khăn của tình hình kinh tế trong nước, ngay từ đầu năm, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015; Nghị quyết số 19/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia 2 năm 2015 - 2016. Sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương; sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân đã góp phần tạo nên những kết quả tích cực.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2015 ước tính tăng 6,68% so với năm 2014, cao hơn mục tiêu 6,2% đề ra và cao hơn mức tăng của các năm từ 2011-2014. Điều đó cho thấy nền kinh tế nước ta đã phục hồi rõ nét. Trong mức tăng trưởng chung: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,41%, thấp hơn mức 3,44% của năm 2014, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,64%, cao hơn nhiều mức tăng 6,42% của năm trước, đóng góp 3,20 điểm phần trăm, trong đó ngành công nghiệp tăng 9,39% so với năm trước (công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,60%), ngành xây dựng tăng 10,82%, đây là mức tăng cao nhất kể từ năm 2010; Khu vực dịch vụ tăng 6,33%, đóng góp 2,43 điểm phần trăm.
Quy mô nền kinh tế năm nay theo giá hiện hành đạt 4.192,9 nghìn tỷ đồng; GDP bình quân đầu người năm 2015 ước tính đạt 45,7 triệu đồng, tương đương 2109 USD, tăng 57 USD so với năm 2014. Xét về góc độ sử dụng GDP, tiêu dùng cuối cùng tăng 9,12% so với năm 2014; tích lũy tài sản tăng 9,04%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ làm giảm 8,62 điểm phần trăm của mức tăng trưởng chung.
Trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng lúa cả năm 2015 ước tính đạt 45,2 triệu tấn, tăng 240,9 nghìn tấn so với năm 2014; diện tích gieo trồng đạt 7,8 triệu ha, tăng 18,7 nghìn ha; năng suất đạt 57,7 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha. Tại thời điểm 01-10-2015, đàn trâu cả nước có 2,5 triệu con, tăng 0,1% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 5,4 triệu con, tăng 2,5%; đàn lợn có 27,7 triệu con, tăng 3,7%; đàn gia cầm có 341,9 triệu con, tăng 4,3%. Sản lượng thịt trâu hơi đạt 85,8 nghìn tấn, tăng 0,1%; sản lượng thịt bò đạt 299,3 nghìn tấn, tăng 2,2%; sản lượng thịt lợn đạt 3,5 triệu tấn, tăng 4,2%; sản lượng thịt gia cầm đạt 908,1 nghìn tấn, tăng 3,8%. Sản lượng thuỷ sản ước tính đạt 6.549,7 nghìn tấn, tăng 3,4% so với năm trước, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 3.513,4 nghìn tấn, tăng 2,9%; sản lượng khai thác đạt 3.036,3 nghìn tấn, tăng 4%.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 9,8% so với năm 2014, cao hơn nhiều mức tăng 5,9% của năm 2013 và 7,6% của năm 2014. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 6,5%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,6%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,4%. Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 11 tháng năm nay tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2014, cao hơn mức tăng của cùng kỳ hai năm gần đây. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01-12-2015 tăng 7,4% so với tháng trước và tăng 9,5% so với cùng thời điểm năm 2014 (cùng thời điểm năm 2013 tăng 10,2%; năm 2014 tăng 10%).
Về đăng ký doanh nghiệp, trong năm 2015, cả nước có 94.754 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 601,5 nghìn tỷ đồng, tăng 26,6% về số doanh nghiệp và tăng 39,1% về số vốn đăng ký so với năm 2014 (Năm 2014, số doanh nghiệp giảm 2,7%; số vốn tăng 8,4% so với năm 2013). Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp năm 2015 đạt 6,3 tỷ đồng, tăng 9,9% so với năm trước. Số lao động dự kiến được tạo việc làm của các doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2015 là 1.471,9 nghìn người, tăng 34,9% so với năm 2014. Trong năm, cả nước có 21.506 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 39,5% so với năm trước. Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm là 9.467 doanh nghiệp, giảm 0,4% so với năm trước. Số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động trong năm là 71.391 doanh nghiệp, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2015 ước tính đạt 3.242,9 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với năm trước (loại trừ yếu tố giá tăng 8,4%, cao hơn mức tăng 8,1% của năm 2014). Xét theo ngành kinh doanh, bán lẻ hàng hóa đạt 2.469,9 nghìn tỷ đồng, tăng 10,6%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 372,2 nghìn tỷ đồng, tăng 5,2%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 30,4 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5%; doanh thu dịch vụ khác đạt 370,3 nghìn tỷ đồng, tăng 7%.
Trong lĩnh vực vận tải, vận tải hành khách năm nay ước tính đạt 3.283,1 triệu lượt khách, tăng 7,7% và 143 tỷ lượt khách.km, tăng 7,9% so với năm 2014, trong đó vận tải đường bộ đạt 3.099,2 triệu lượt khách, tăng 7,9% và 105 tỷ lượt khách.km, tăng 8,5%; đường sông đạt 146,5 triệu lượt khách, tăng 4% và 2,5 tỷ lượt khách.km, tăng 6,5%; đường hàng không đạt 20,7 triệu lượt khách, tăng 7,9% và 31,1 tỷ lượt khách.km, tăng 7,2%; đường biển đạt 5,4 triệu lượt khách, tăng 5,3% và 267,4 triệu lượt khách.km, tăng 4,9%; đường sắt đạt 11,2 triệu lượt khách, giảm 5,3% và 4,2 tỷ lượt khách.km, giảm 0,3%. Vận tải hàng hóa năm nay ước tính đạt 1.133,9 triệu tấn, tăng 6% và 226,8 tỷ tấn.km, tăng 3,1% so với năm trước, trong đó vận tải trong nước đạt 1.102 triệu tấn, tăng 6,1% và 98,8 tỷ tấn.km, tăng 6,9%; vận tải ngoài nước đạt 31,9 triệu tấn, tăng 3,8% và 128 tỷ tấn.km, tăng 0,3%.
Khách quốc tế đến Việt Nam năm 2015 ước tính đạt 7.943,7 nghìn lượt người, giảm 0,2% so với năm 2014, là năm đầu tiên khách đến Việt Nam giảm kể từ năm 2009. Khách đến bằng đường hàng không trong năm tăng 0,8% so với năm trước; đường bộ giảm 6,5%; đường biển tăng mạnh với 27,5%. Xét theo thị trường, đối với châu Á, khách đến từ Hàn Quốc tăng 31,3%; Nhật Bản tăng 3,6%; Ma-lai-xi-a tăng 4,1%; Xin-ga-po tăng 16,9%; Trung Quốc giảm 8,5%; Cam-pu-chia giảm 43,8%; In-đô-nê-xi-a giảm 9,3%; Thái Lan giảm 13,1%; Lào giảm 16,6%; Phi-li-pin giảm 3,5%. Đối với châu Âu, khách đến từ Anh tăng 5,2%; Đức tăng 4,7%; Hà Lan tăng 7,8%; Tây Ban Nha tăng 10,4%; I-ta-li-a tăng 10,6%; Nga giảm 7,1%; Pháp giảm 1%; Thụy Điển giảm 1,4%. Đối với châu Mỹ và châu Úc, khách đến từ Hoa Kỳ tăng 10,7%; Ôx-trây-li-a giảm 5,4%. Khách đến từ châu Phi đạt 27,2 nghìn lượt người, tăng 44,3%.
Về đầu tư phát triển, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2015 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.367,2 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2014 và bằng 32,6% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 519,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 38% tổng vốn và tăng 6,7%; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 529,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,7% và tăng 13%; vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 318,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,3% và tăng 19,9%. Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách nhà nước ước tính đạt 220,4 nghìn tỷ đồng, bằng 100,6% kế hoạch năm và tăng 6,1% so với năm 2014.
Về thu hút đầu tư, đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 15-12-2015 có 2.013 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15,58 tỷ USD, tăng 26,8% về số dự án và giảm 0,4% về số vốn so với cùng kỳ năm 2014. Tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 22,76 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm 2014. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2015 ước tính đạt 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với năm trước.
Về thu, chi ngân sách nhà nước, tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15-12-2015 ước tính đạt 884,8 nghìn tỷ đồng, bằng 97,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 657 nghìn tỷ đồng, bằng 102,9%; thu từ dầu thô 62,4 nghìn tỷ đồng, bằng 67,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 160 nghìn tỷ đồng, bằng 91,4%. Tổng chi ngân sách nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15-12-2015 ước tính đạt 1.064,5 nghìn tỷ đồng, bằng 92,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 162 nghìn tỷ đồng, bằng 83,1% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 157,5 nghìn tỷ đồng, bằng 82,7%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính đạt 745 nghìn tỷ đồng, bằng 97,1%; chi trả nợ và viện trợ 148,3 nghìn tỷ đồng, bằng 98,9%.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2015 ước tính đạt 162,4 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm 2014, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 12,4% (chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa giảm 3,8%). Kim ngạch xuất khẩu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước tính đạt 115,1 tỷ USD, tăng 13,8%; khu vực trong nước ước tính đạt 47,3 tỷ USD, giảm 3,5%. Đóng góp chính vào mức tăng chung chủ yếu là nhóm hàng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với tỷ trọng cao, như: Điện thoại các loại và linh kiện chiếm 99,7%, điện tử máy tính và linh kiện chiếm 98,2%, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác chiếm 89,5%, giày dép chiếm 79,7%; hàng dệt may chiếm 60,4%.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 45,5% tổng kim ngạch, tăng 1,5 điểm phần trăm so với năm 2014; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 39,9%, tăng 0,6 điểm phẩn trăm; hàng nông, lâm chiếm 10,5%, giảm 1 điểm phần trăm; hàng thủy sản chiếm 4,1%, giảm 1,1 điểm phần trăm. Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất với kim ngạch ước tính chiếm tỷ trọng 20,6% tổng kim ngạch xuất khẩu; tiếp đến là EU chiếm 19%...
Về nhập khẩu hàng hóa, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2015 ước tính đạt 165,6 tỷ USD, tăng 12% so với năm trước, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 98 tỷ USD, tăng 16,4%; khu vực kinh tế trong nước đạt 67,6 tỷ USD, tăng 6,3%. Nếu loại trừ yếu tố giá (giá nhập khẩu giảm 5,8%), kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tăng 18,9%, cao hơn mức tăng 13,2% của năm 2014.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm tới 91,3% tổng kim ngạch, tăng 0,2 điểm phần trăm so với năm 2014; hàng tiêu dùng chiếm 8,7%, giảm 0,2 điểm phần trăm. Một số mặt hàng phục vụ sản xuất tăng cao so với năm trước: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác tăng 23,1%; vải đạt tăng 8,2%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép tăng 7,5%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn tăng so với năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện tăng 24,2%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 25,4%; ô tô tăng 59%, trong đó ô tô nguyên chiếc tăng 87,7%.
Xét về thị trường nhập khẩu, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch chiếm 28,8% tổng kim ngạch nhập khẩu; tiếp đến là Hàn Quốc chiếm 16,7%; ASEAN chiếm 14,4%...
Năm 2015, nước ta nhập siêu 3,2 tỷ USD (sau 3 năm liên tiếp xuất siêu), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 20,3 tỷ USD; khu vực FDI xuất siêu 17,1 tỷ USD. Nhập siêu lớn là thị trường Trung Quốc ước tính nhập siêu tới 32,3 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm trước; thị trường Nhật Bản sau nhiều năm xuất siêu, năm 2015 nhập siêu hơn 300 triệu USD.
Về chỉ số giá tiêu dùng (CPI), CPI tháng 12-2015 tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2014. CPI bình quân năm 2015 tăng 0,63% so với bình quân năm 2014.
Các lĩnh vực xã hội nhìn chung phát triển ổn định. Dân số trung bình năm 2015 ước tính 91,70 triệu người, tăng 974,9 nghìn người so với năm 2014. Tổng tỷ suất sinh năm nay ước tính đạt 2,10 con/phụ nữ. Tỷ suất sinh thô là 16,20‰; tỷ suất chết thô là 6,81‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi là 14,73‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 22,12‰. Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước năm 2015 là 73,3 tuổi, trong đó nam là 70,7 tuổi và nữ là 76,1 tuổi.
Vấn đề lao động, việc làm, đời sống dân cư được quan tâm giải quyết. Tại thời điểm 01-01-2016, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước là 54,61 triệu người, tăng 185 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2014; lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 48,19 triệu người, tăng 506,1 nghìn người. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2015 ước tính 52,9 triệu người, tăng 142 nghìn người so với năm 2014, trong đó lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 44,3%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 22,9%; khu vực dịch vụ chiếm 32,8%. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo năm 2015 ước tính đạt 21,9%, cao hơn mức 19,6% của năm 2014.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2015 là 2,31%, trong đó khu vực thành thị là 3,29%; khu vực nông thôn là 1,83%. Tỷ lệ thất nghiệp cao nhất là của thanh niên từ 15 - 24 tuổi là 6,85%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi trở lên là 1,27%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2015 là 1,82%.
Năng suất lao động xã hội toàn nền kinh tế năm 2015 theo giá hiện hành ước tính đạt 79,3 triệu đồng/lao động, tương đương 3.657 USD/lao động. Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm nay ước tính tăng 6,4% so với năm 2014.
Về giáo dục và đào tạo, đến cuối năm 2015, cả nước có 37/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, trong đó 12 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2.
Đến thời điểm đầu năm học 2015 - 2016, số giáo viên mẫu giáo là 231 nghìn người; số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy 829 nghìn người, bao gồm: 365 nghìn giáo viên tiểu học; 313 nghìn giáo viên trung học cơ sở và 151 nghìn giáo viên trung học phổ thông. Trong năm học này, cả nước có 3,9 triệu trẻ em đi học mẫu giáo; 7,7 triệu học sinh tiểu học; 5,1 triệu học sinh trung học cơ sở và 2,4 triệu học sinh trung học phổ thông. Cả nước có 1.467 cơ sở dạy nghề, bao gồm 190 trường cao đẳng nghề; 280 trường trung cấp nghề; 997 trung tâm dạy nghề và hơn 1 nghìn cơ sở có dạy nghề với tổng số giáo viên dạy nghề hơn 40,6 nghìn người.
Về thiên tai, thiên tai xảy ra trong năm làm 157 người chết và mất tích; 199 người bị thương; hơn 30 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; gần 80 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng, hư hỏng; hơn 70 km đê, kè, kênh mương và 341 km đường xe cơ giới bị sạt lở; khoảng 500 đập, cống bị phá hủy và hư hỏng; hơn 200 cột điện trung, cao và hạ thế bị gãy, đổ. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm ước tính khoảng 5,4 nghìn tỷ đồng.
Nhìn chung, những kết quả tích cực của sự phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 góp phần quan trọng vào việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015, tạo đà cho những bước phát triển tích cực hơn trong giai đoạn 2016-2020./.
Khánh thành Khu truyền thống cách mạng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định  (27/12/2015)
Thúc đẩy niềm tin chính trị giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc  (27/12/2015)
Giám sát có định lượng sẽ đạt hiệu quả cao  (27/12/2015)
Hội chợ Thương mại Việt Nam-Lào: Tăng cường quan hệ hữu nghị  (27/12/2015)
Ký hợp đồng tín dụng cho dự án thủy điện Nặm-mô 2 tại Lào  (27/12/2015)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên