Thực hiện chủ trương cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế

Vương Đình Huệ Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương
19:09, ngày 16-10-2014

TCCS - Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Kết luận số 10-KL/TW, ngày 18-10-2011, Hội nghị Trung ương 3 khóa XI, vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đã được thể chế hóa và tổ chức thực hiện như một nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt trong việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015. Một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế là cơ cấu lại đầu tư mà trọng tâm là đầu tư công.

Một số thành tựu và hạn chế trong lĩnh vực đầu tư công 

Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định rõ một trong những nhiệm vụ chủ yếu phát triển đất nước trong giai đoạn 2011 - 2015 là: “Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế...”. Tại Kết luận số 10-KL/TW, ngày 18-10-2011, Hội nghị Trung ương 3 khóa XI tiếp tục nêu “Cơ cấu lại nền kinh tế phải gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh... Trong 5 năm tới, cần tập trung vào ba lĩnh vực quan trọng nhất: Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước”.

Việc cơ cấu lại nền kinh tế, nhất là các lĩnh vực trọng tâm (đầu tư công; hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước) được cả hệ thống chính trị quan tâm, nghiêm túc quán triệt, triển khai thực hiện, bước đầu đạt được một số kết quả có tác động tích cực: Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được mức tăng trưởng hợp lý, tỷ lệ tăng trưởng bình quân 3 năm 2011 - 2013 đạt 5,64%, cao hơn mức tăng trưởng bình quân của các nước ASEAN cùng thời kỳ, tăng trưởng GDP cả năm 2013 đạt 5,42%, cao hơn mức 5,25% của năm 2012, đưa quy mô nền kinh tế nước ta lên hơn 171 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người lên khoảng 1.908 USD. Lạm phát được kiểm soát, tỷ lệ lạm phát đã giảm mạnh từ mức 18,13% (năm 2011) xuống 6,81% (năm 2012) và chỉ còn 6,04% vào năm 2013. Mô hình tăng trưởng có chuyển biến bước đầu từ chiều rộng sang chiều sâu. Chất lượng tăng trưởng đã được nâng lên một bước. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR) được cải thiện, giảm từ 6,7 giai đoạn 2006 - 2010 còn 5,53 trong giai đoạn 2011 - 2013. Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Năng suất lao động năm 2013 tăng 10,1% so với năm 2010 và dự kiến tăng bình quân khoảng 19,7% trong giai đoạn 2011 - 2015. Tăng trưởng kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường được quan tâm nhiều hơn. An sinh xã hội được bảo đảm, phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, đặc biệt là trong vấn đề giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội.

Trong các lĩnh vực trọng tâm, cơ cấu lại đầu tư công đã đạt được những kết quả khá rõ rệt, cụ thể là:

- Thực hiện chủ trương của Đảng, trong giai đoạn 2011 - 2014, nhiều luật, nghị quyết, quyết định, thông tư của các cấp đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung nhằm tạo thể chế quan trọng cho cơ cấu lại đầu tư công, trong đó:

+ Quốc hội đã ban hành 07 luật liên quan đến đầu tư (Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng (sửa đổi), Luật Đấu thầu, Luật Đất đai, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế giá trị gia tăng); đang chuẩn bị trình Luật Đầu tư (sửa đổi), Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Luật Ngân sách nhà nước. Đã ban hành 01 nghị quyết của Quốc hội về giám sát thực hiện pháp luật chính sách về xây dựng và phát triển khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu, 03 nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội các năm 2012, 2013, 2014.

+ Chính phủ đã ban hành 06 nghị quyết(1), 15 nghị định(2); Thủ tướng Chính phủ ban hành 09 chỉ thị(3), 15 quyết định(4) và nhiều công văn có liên quan đến đầu tư. Các bộ, như Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành 10 văn bản hướng dẫn các chỉ thị và quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Bộ Tài chính đã ban hành 02 thông tư về chính sách quản lý, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư từ trái phiếu chính phủ; 01 quyết định về phê duyệt chương trình hành động kiểm soát hoạt động chuyển giá giai đoạn 2012 - 2015; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành 01 quyết định, 01 thông tư, 01 chỉ thị, 02 văn bản về đầu tư công. Bộ Xây dựng đã ban hành 01 thông tư về quy trình thẩm tra, thẩm định và phê duyệt thiết kế xây dựng công trình...

- Cơ chế phân bổ vốn đầu tư được đổi mới theo hướng minh bạch hóa, thực hiện cân đối vốn đầu tư theo kế hoạch trung hạn (kể cả vốn ngân sách nhà nước (NSNN), vốn trái phiếu chính phủ (TPCP) và các chương trình mục tiêu quốc gia); vốn đầu tư được tập trung hơn cho các công trình, dự án quan trọng, cấp thiết, sớm hoàn thành, đưa nhanh vào sử dụng để phát huy hiệu quả; ưu tiên bố trí vốn cho các công trình cần thiết phải hoàn thành trong năm kế hoạch và vốn đối ứng cho các dự án ODA... Các dự án, công trình khởi công mới từng bước được kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm thủ tục đầu tư, xác định rõ nguồn vốn. Đối với các dự án đầu tư bằng vốn NSNN, vốn TPCP nhưng không có nguồn để bố trí tiếp đã được chuyển sang hình thức đầu tư khác phù hợp hoặc phải tạm đình chỉ. Đã quan tâm và có kết quả bước đầu trong xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản, năm 2012, nợ đọng xây dựng cơ bản còn 43.358 tỷ đồng, giảm hơn 50% so với năm 2011 (khoảng 91.000 tỷ đồng)(5).

- Cơ chế phân cấp quản lý đầu tư bắt đầu được hoàn thiện, trước hết là đối với đầu tư từ nguồn NSNN và TPCP theo hướng bảo đảm quản lý thống nhất của Trung ương về mục tiêu và danh mục các chương trình, dự án theo quy hoạch. Các hoạt động trên đã dẫn đến kết quả tích cực, khắc phục dần sự đầu tư dàn trải trong đầu tư công tồn tại nhiều năm qua.

- Tỷ lệ vốn đầu tư công trong GDP đã có xu hướng giảm từ 8,5% GDP (giai đoạn 2006 - 2010) còn khoảng 6% (giai đoạn 2011 - 2013). Tỷ trọng vốn đầu tư công trong tổng đầu tư xã hội cũng có xu hướng giảm. Trong giai đoạn 2001 - 2005, tỷ trọng này chiếm tới 53,4%, trong giai đoạn 2006 - 2010 chiếm trên 43,5%, trong khi đó bình quân năm giai đoạn 2011 - 2013 chỉ còn 41%.

- Hiệu quả đầu tư công đã được tăng lên(6), nếu trong giai đoạn 2006 - 2010, ICOR bình quân khu vực kinh tế nhà nước là 9,6 (so với ICOR chung của nền kinh tế là khoảng 6,29) thì giai đoạn 2011 - 2013 đã giảm xuống còn khoảng 7,5 (so với ICOR chung là khoảng 5,53).

- Môi trường đầu tư được cải thiện, giảm các thủ tục hành chính, bổ sung, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư trong việc tiếp cận các nguồn lực; khuyến khích và giảm bớt các rào cản đối với các hoạt động đầu tư tư nhân; tăng cường thu hút và quản lý đầu tư FDI. Trong 3 năm 2011 - 2013, tổng vốn huy động cho đầu tư phát triển là 2.963,5 tỷ đồng, đã xấp xỉ bằng với tổng vốn đầu tư phát triển của cả giai đoạn 2006 - 2010 là 3.092,7 tỷ đồng. Với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 8,7%/năm trong những năm qua, tổng vốn đầu tư xã hội huy động trung bình hằng năm khoảng 31,2% GDP đã góp phần đáng kể vào việc ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Mặc dù đà phục hồi tăng trưởng còn chậm, nhưng đến nay về cơ bản nền kinh tế Việt Nam đã chấm dứt được sự sụt giảm và đang có xu hướng gia tăng trở lại. Hệ thống kết cấu hạ tầng đã từng bước được hoàn thiện, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.

Về cơ cấu đầu tư trong giai đoạn 2011 - 2013, vốn nhà nước chiếm 38,8% (trong đó vốn NSNN: 19,6%, vốn TPCP: 5,6%, vốn tín dụng đầu tư nhà nước: 4,8%, vốn đầu tư của DNNN: 8,8%); vốn đầu tư của khu vực tư nhân: 38,2%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 11,7%. Đáng chú ý là, vốn đầu tư của khu vực tư nhân giai đoạn 2011 - 2013 có sự gia tăng về tỷ trọng (chiếm 38,2%) trong tổng vốn đầu tư so với giai đoạn 2006 - 2010 (chiếm 36,1%). Bên cạnh đó, bất chấp sự suy giảm kinh tế toàn cầu, Việt Nam vẫn là điểm đến tương đối hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong 3 năm 2011 - 2013, tổng vốn FDI giải ngân vào Việt Nam vẫn đạt 507,1 nghìn tỷ đồng, tương đương với hơn 21,4 tỷ USD và đang theo đúng lộ trình đặt ra của kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.

Tuy nhiên, việc thực hiện cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công còn một số hạn chế, yếu kém là:

- Chưa có Đề án cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, mà chủ yếu được thực hiện theo Chỉ thị số 1792 của Thủ tướng Chính phủ, hiệu lực pháp lý thấp. Nhiều giải pháp còn mang tính tình thế; chưa đồng bộ, toàn diện và có tính hệ thống để cơ cấu lại đầu tư xã hội nói chung và đầu tư công nói riêng đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo chủ trương của Đảng và Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

- Cơ cấu lại đầu tư công chưa thực sự đặt trong tổng thể và gắn kết chặt chẽ với cơ cấu lại tài chính công và thu - chi ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân sách có xu hướng vượt qua giới hạn mục tiêu đề ra trong kế hoạch 2011 - 2015. Cụ thể, thâm hụt ngân sách đã tăng từ 4,4% GDP trong năm 2011 lên 4,8% GDP trong năm 2012, 5,3% GDP trong năm 2013 và dự kiến tiếp tục duy trì trong mức này vào năm 2014 và 2015. Xét về giá trị tuyệt đối, thâm hụt ngân sách vào khoảng 112 nghìn tỷ đồng trong năm 2011 (tăng 2,6%), 140,2 nghìn tỷ đồng trong năm 2012 (tăng 25,1%), và 195,5 nghìn tỷ đồng trong năm 2013 (tăng 39,4%). Như vậy, dự kiến mức thâm hụt ngân sách trong giai đoạn 2011 - 2015 sẽ xấp xỉ khoảng 5% GDP, cao hơn so với mục tiêu là 4,5% GDP. Thâm hụt ngân sách cao góp phần làm nợ công tăng nhanh. Mặc dù tổng chi NSNN trong những năm qua tiếp tục duy trì ở mức cao, hiện vào khoảng hơn 900.000 tỷ đồng mỗi năm và gấp gần 2 lần so với trung bình chi NSNN của giai đoạn 2006 - 2010, nhưng chi cho đầu tư phát triển chỉ còn bằng 20% tổng chi NSNN và tổng chi thường xuyên lại tăng mạnh, hiện gần gấp 4 lần chi đầu tư phát triển.

- Hiệu ứng thu hút đầu tư xã hội của đầu tư công còn hạn chế. Tỷ lệ đầu tư công giảm trong GDP và trong tổng đầu tư xã hội nhưng con số hơn 38% đầu tư xã hội bảo đảm bằng đầu tư công vẫn còn là khá cao so với vai trò “vốn mồi” (kế hoạch đặt ra khoảng 30% - 35% là hợp lý). Trong đầu tư công phần vốn đầu tư từ NSNN vẫn lớn (so với đầu tư từ tín dụng và đầu tư từ các DNNN, con số này vẫn chiếm tới 22% tổng đầu tư và xấp xỉ 50% tổng đầu tư công (mức hợp lý kế hoạch đặt ra là 17% - 18% và 30% - 35%).

- Quá trình sắp xếp, rà soát lại quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư trung hạn còn nhiều hạn chế. Mặc dù có nhiều chuyển biến giảm đầu tư công nhưng thực chất vẫn là giảm về quy mô trong điều kiện ngân sách eo hẹp không được phép bội chi và phát hành TPCP quá nhiều chứ chưa thực sự là kết quả sắp xếp lại đầu tư theo một quy hoạch, cơ cấu hợp lý, hướng tới hiệu quả phân bổ nguồn lực tối ưu.

- Quản lý đầu tư công còn nhiều bất cập, hiệu quả thấp, còn thiếu hệ thống thông tin và tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của các dự án đầu tư công. Hiệu quả đầu tư công mặc dù tăng lên trong những năm qua nhưng vẫn còn cao hơn so với hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chung. Theo Tổng cục Thống kê, hệ số ICOR của đầu tư công giai đoạn 2011 - 2013 là khoảng 7,5, vẫn cao hơn so với hệ số ICOR chung là 5,53.

- Phân cấp quyết định đầu tư còn bất cập, thiếu chế tài kiểm tra, giám sát và xử lý. Vẫn còn tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, đầu tư tràn lan, mất cân đối vốn. Kết quả xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản vẫn còn hạn chế, chưa bố trí nguồn để thanh toán thu hồi các khoản tạm ứng về xây dựng cơ bản.

Những nguyên nhân khách quan và chủ quan của thực trạng đầu tư công

Do xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp, trong khi nhu cầu đầu tư rất lớn, cùng lúc phải triển khai xây dựng nhiều công trình nên không bảo đảm đủ vốn, thời gian xây dựng kéo dài, chậm đưa công trình vào khai thác, sử dụng. Nhu cầu vốn đầu tư lớn trong điều kiện nguồn vốn ngân sách nhà nước hạn chế đã ảnh hưởng nhiều đến chủ trương đầu tư chung.

- Khủng hoảng kinh tế thế giới đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trên tất cả các ngành, lĩnh vực; giá cả các nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tiếp tục tăng, đặc biệt là giá xăng dầu đã làm giảm đáng kể hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.

- Nhận thức chưa thống nhất và đầy đủ về đầu tư công dẫn đến thiếu đồng thuận trong xây dựng định hướng, quy hoạch và kế hoạch về đầu tư công. Nhận thức về nguồn lực đầu tư chậm chuyển biến, hiện vẫn dựa vào ngân sách nhà nước là chủ yếu, thiếu vận dụng sáng tạo các cơ chế, chính sách để khuyến khích, huy động tối đa nguồn lực đầu tư của toàn xã hội.

- Cơ chế phản biện khách quan, dân chủ và công khai đối với cơ chế, chính sách và đặc biệt là các quyết định về đầu tư công quan trọng còn hạn chế.

- Cơ chế trách nhiệm tập thể dẫn đến khó quy trách nhiệm cá nhân đối với các chủ trương về đầu tư công. Biểu hiện rõ nhất là Chính phủ thường xuyên phải họp để xử lý những vấn đề rất cụ thể của từng dự án đơn lẻ, ra quyết định hoặc cho ý kiến vượt cấp đối với những dự án thuộc trách nhiệm của địa phương, bộ, ngành.

- Việc xác định phạm vi của đầu tư công trong thời gian qua còn chưa được thống nhất trong các văn bản luật hiện hành.

Mô hình tăng trưởng những năm sắp tới của nước ta là mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất và hiệu quả hướng tới sự phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, tăng trưởng dựa trên sự kết hợp hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, trong đó lấy tăng trưởng theo chiều sâu là hướng chủ đạo, nâng cao năng suất lao động, khai thác lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị nội địa và tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu; chuyển tăng trưởng từ chỗ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và đầu tư sang phát triển đồng thời cả về đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng. Động lực tăng trưởng kinh tế của nước ta phải dựa trên năng suất lao động, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tăng trưởng trên cơ sở khai thác, phát huy nguồn nội lực có vai trò quyết định, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; mọi yếu tố tăng trưởng được thực hiện trên nền tảng thể chế kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Tăng trưởng luôn hướng tới các mục tiêu dài hạn, bền vững, hiệu quả và vì con người, trong đó đặc biệt chú trọng đến tăng trưởng kinh tế xanh, tăng trưởng kinh tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống, vật chất và tinh thần của nhân dân.

Để tiếp cận mô hình tăng trưởng trên, trong giai đoạn tới, cần đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao trình độ phát triển và năng lực cạnh tranh của các ngành, doanh nghiệp, sản phẩm và nền kinh tế. Thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, toàn diện trong các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế trên phạm vi cả nước và từng địa phương, đơn vị, cơ sở, sản phẩm chủ yếu, với tầm nhìn dài hạn và có lộ trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa “tổng thể” và “trọng tâm” trong cơ cấu lại nền kinh tế. Huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo lập và phát triển các cân đối của nền kinh tế; gắn phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Những định hướng chủ trương và giải pháp lớn đối với lĩnh vực cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công

Một là, xây dựng và tổ chức triển khai Đề án cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công gắn với quá trình cơ cấu lại tài chính công và ngân sách nhà nước trong một tổng thể thống nhất, hướng tới đổi mới căn bản cơ chế, cách thức huy động, phân bổ, quản lý và sử dụng vốn đầu tư xã hội nhằm bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, các định hướng ưu tiên của đầu tư công và đầu tư xã hội trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Tăng cường quản lý, kiểm soát an toàn nợ công, nợ chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia.

Hai là, tiếp tục đổi mới thể chế và cải cách hành chính đối với lĩnh vực đầu tư để tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hiệu quả cho các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; sớm hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư công bằng việc quy trình hóa và tiêu chí hóa các khâu lập kế hoạch, phê duyệt, tổ chức thực hiện và giám sát các dự án đầu tư công; xây dựng và ban hành thể chế đầu tư theo hình thức hợp tác công - tư (PPP). Hoàn thiện pháp luật về ngân sách nhà nước, về đầu tư công trên cơ sở phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa Trung ương và địa phương phù hợp với quy định của Hiến pháp; giảm bớt tính lồng ghép của hệ thống ngân sách; thực hiện kế hoạch ngân sách trung hạn và phân bổ ngân sách theo kết quả đầu ra.

Ba là, rà soát lại toàn bộ quy hoạch tổng thể ngành, lĩnh vực và vùng từ Trung ương đến địa phương. Xây dựng quy hoạch đầu tư chung và từng nguồn vốn phù hợp với mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế.

Bốn là, tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng đầu tư công trong quá trình tái cơ cấu, khắc phục căn bản tình trạng bố trí vốn dàn trải gây lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả trong đầu tư; tăng cường kiểm tra, kiểm soát để bảo đảm bố trí vốn tập trung theo đúng các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn đầu tư; tăng cường trách nhiệm của chính quyền các cấp, nhất là chính quyền địa phương trong cơ cấu lại đầu tư công, thu hồi các khoản tạm ứng và xử lý nợ đọng trong xây dựng cơ bản.

Năm là, việc tổ chức thực hiện cần có sự phối hợp liên kết giữa các ngành, giữa ngành với địa phương và giữa các địa phương trong vùng. Nhận thức rõ đối tượng của tái cơ cấu đầu tư là các chủ thể kinh tế của các thành phần kinh tế, trách nhiệm thực hiện tái cơ cấu đầu tư công là người đứng đầu các cơ quan hành chính ở Trung ương và địa phương.

Sáu là, nâng cao vai trò của cá nhân người đứng đầu các tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp, ngành, địa phương về giám sát thực hiện chủ trương và tổ chức thực hiện tái cơ cấu đầu tư, trong đó có đầu tư công. Chính phủ chỉ đạo thống nhất, có sự phối hợp của toàn bộ hệ thống chính trị với tầm nhìn trung và dài hạn.

Bên cạnh những giải pháp có tính vĩ mô, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể như sau:

- Cần làm rõ chức năng, vai trò của các loại đầu tư, đặc biệt là đầu tư công nói chung và đầu tư công của các ngành, các địa phương, cũng như các thành phần của đầu tư công. Điều chỉnh cơ chế huy động và sử dụng vốn ngân sách theo các tiêu chí ưu tiên. Tập trung phát hành TPCP cho các dự án quan trọng. Ưu tiên đầu tư công vào các lĩnh vực, dự án trọng điểm, quan trọng của quốc gia, liên ngành, liên vùng, nhiều rủi ro mà tư nhân không muốn hoặc không thể đầu tư.

- Cần có tiêu chí cụ thể đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư công (trước mắt, lâu dài, trực tiếp, gián tiếp) và hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Có quy định cụ thể về các trường hợp vi phạm và chế tài xử lý phù hợp đủ mạnh để ngăn ngừa, răn đe, nhất là đối với việc đầu tư vào các dự án kém hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí, không vì lợi ích chung, lợi ích quốc gia.

- Xác định tập trung vào một số lĩnh vực ưu tiên đầu tư công đến năm 2020 (dựa vào Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và các lĩnh vực ưu tiên phát triển đến năm 2020). Sớm tiến hành rà soát tổng thể tất cả các nghị quyết, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội đã ban hành, để điều chỉnh các mục tiêu, tiến độ và sắp xếp lại thứ tự ưu tiên của các chính sách phù hợp với khả năng cân đối nguồn vốn trong trung và dài hạn của NSNN và tổng nguồn vốn khả thi của xã hội.

- Hoàn thiện quy định về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền trung ương và địa phương đối với quản lý đầu tư công, đồng thời với đổi mới quy trình xây dựng kế hoạch và phân bổ vốn theo nguyên tắc cấp nào thực hiện hiệu quả hơn cho lợi ích quốc gia thì giao vốn cho cấp đó. Có thể thành lập Hội đồng tư vấn độc lập để đánh giá và lựa chọn dự án ưu tiên.

- Cần nhanh chóng thực hiện nguyên tắc “minh bạch và công khai hóa” tất cả các khâu liên quan đến đầu tư công cho tất cả các đối tượng có liên quan, nhất là các đối tượng được thụ hưởng để có căn cứ tham gia ý kiến và giám sát, kiểm tra kịp thời, đầy đủ, đồng bộ./.

--------------------------------------------

(1) Trong đó: 01 nghị quyết về ban hành chương trình hành động thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015; 03 nghị quyết về điều hành phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, 2013, 2014; 01 nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh, 01 nghị quyết về đầu tư nước ngoài

(2) Trong đó: 07 nghị định về đầu tư công; 01 nghị định về khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất; 02 nghị định về khuyến công và khuyến nông; 05 nghị định về tái cơ cấu doanh nghiệp, trong đó có tái cơ cấu đầu tư

(3) Trong đó: 01 chỉ thị về triển khai tổng thể Đề án tái cơ cấu nền kinh tế; 03 chỉ thị về tăng cường quản lý đầu tư nguồn vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ, xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB); 02 chỉ thị về chấn chỉnh việc thực hiện và công tác quản lý đấu thầu; 01 chỉ thị về chấn chỉnh công tác quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế, khu công nghiệp; 01 chỉ thị về việc tăng cường thực hiện và chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài; 01 chỉ thị về loại bỏ các rào cản và hoàn thiện cơ chế chính sách để nâng cao hiệu quả đầu tư

(4) Trong đó: 01 quyết định về phê duyệt đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế; 02 quyết định về phê duyệt chiến lược quốc gia; 10 quyết định về đầu tư công; 05 quyết định về đầu tư nước ngoài; 01 quyết định về khu kinh tế cửa khẩu; 04 quyết định về khuyến khích đầu tư, 02 quyết định về tái cơ cấu doanh nghiệp, trong đó có tái cơ cấu đầu tư

(5) Báo cáo số 480/BC-CP, ngày 18-11-2013, của Chính phủ về nợ đọng xây dựng cơ bản đến ngày 31-12-2012

(6) Khi xem xét hiệu quả của đầu tư công với hiệu quả của đầu tư từ các khu vực khác để tính toán hiệu quả đầu tư chung của nền kinh tế