Giải pháp mở rộng vốn tín dụng ngân hàng cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long
Đánh giá chung về vốn tín dụng ngân hàng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong các năm qua, hệ thống ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã không ngừng đổi mới toàn diện cả về nhận thức, chiến lược, cũng như ban hành các cơ chế, chính sách và triển khai các biện pháp cụ thể nhằm hỗ trợ hiệu quả cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các chủ trương, chính sách, biện pháp quản lý và điều hành, đặc biệt là điều hành tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho vay tái cấp vốn, điều hành lãi suất trong thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước; triển khai chiến lược hoạt động của các tổ chức tín dụng, kể cả ngân hàng chính sách xã hội đã góp phần điều chỉnh cơ cấu trong nền kinh tế theo hướng khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, góp phần tạo việc làm cho người lao động trong cả nước nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Dư nợ tín dụng đầu tư vào khu vực đồng bằng sông Cửu Long liên tục đạt tốc độ tăng bình quân toàn quốc và giữ ổn định ở tỷ trọng khoảng 10% tổng dư nợ nền kinh tế.
Vốn tín dụng ngân hàng đã đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, nhiều doanh nghiệp, hộ nông dân, trang trại tại vùng đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện mở rộng, phát triển một nền nông nghiệp đa dạng. Cụ thể là, phát triển chăn nuôi ở nhiều quy mô khác nhau, đẩy mạnh nuôi trồng và chế biến thủy sản, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ giới hóa, áp dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất góp phần tăng năng suất, chất lượng, sản lượng cây trồng, tăng giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng.
Vốn tín dụng cũng góp phần thúc đẩy phát triển thị trường dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy hình thành các vùng sản xuất hàng hóa, khu chăn nuôi tập trung, vùng chuyển đổi nuôi trồng thủy sản, đẩy mạnh khai thác, đánh bắt xa bờ…, phát triển giao thông, thương mại, dịch vụ, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần người dân, ổn định chính trị, bảo đảm an sinh xã hội tại địa phương.
Những vấn đề đặt ra hiện nay
Môi trường cạnh tranh hoạt động tín dụng ngân hàng tại nhiều nơi chưa thực sự sôi động
Tại nhiều khu vực nông thôn, hoạt động tín dụng chủ yếu thông qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Vẫn còn tình trạng người dân thiếu vốn, chưa vay được vốn theo nhu cầu. Tỷ trọng vốn cho vay trung, dài hạn thấp và có xu hướng giảm, đến nay mới chiếm dưới 30% tổng dư nợ của cả vùng đồng bằng sông Cửu Long và thấp hơn nhiều so với các năm trước. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này do việc huy động vốn gặp khó khăn, đồng thời việc điều chuyển vốn trung, dài hạn trong từng hệ thống ngân hàng thương mại cũng hạn chế.
Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại chưa thực sự đạt được hiệu quả như kỳ vọng, tiềm ẩn nhiều rủi ro, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng
Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, nhưng cơ bản nhất vẫn là do các doanh nghiệp tồn kho lớn, nhiều mặt hàng khó tiêu thụ, nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, như: lúa gạo, quả nhiệt đới, thủy sản…, phụ thuộc nhiều vào thị trường nước ngoài cả về giá, chất lượng, cạnh tranh và các rào cản thương mại, phi thương mại khác, trong khi đó, công nghệ chế biến còn có những hạn chế nhất định.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hộ nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết, ngập lũ, nước mặn dâng cao, dịch bệnh, cơ sở thu mua và chế biến. Các yếu tố này gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống cũng như khả năng trả nợ của nông dân, dẫn đến hiệu quả tín dụng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn hạn chế.
Theo Quyết định số 50/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 28-7-2010, các đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội mới được xem xét xóa nợ. Đối tượng này cũng được hưởng chính sách hỗ trợ phí bảo hiểm thiên tai, mùa màng... Trong khi đó, đông đảo hộ nông dân khác trong vùng đồng bằng sông Cửu Long chưa được hưởng hai chính sách này.
Một số thủ tục, quy trình cho vay của nhiều tổ chức tín dụng chưa phù hợp với thực tiễn tại nhiều vùng nông thôn, nhiều đối tượng hộ gia đình
Thực tế cho thấy, các tổ chức tín dụng cho vay chủ yếu vẫn dựa trên tài sản thế chấp, thiếu linh hoạt, cơ chế điều chuyển vốn nội bộ và cơ chế giao các chỉ tiêu khoán kinh doanh vẫn cứng nhắc.
Số liệu đến hết tháng 8-2013 cho thấy, chênh lệch giữa vốn huy động và dư nợ cho vay lên tới 100.000 tỷ đồng (sau khi trừ đi các khoản dự trữ), phải điều chuyển từ hội sở chính ngân hàng thương mại đến các chi nhánh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Song thực tế một số chi nhánh ngân hàng thương mại có khả năng mở rộng tín dụng an toàn nhưng hết chỉ tiêu điều hòa vốn nên không thể tiếp tục cho vay.
Rủi ro thị trường, rủi ro mùa màng, rủi ro sản xuất bởi thời tiết
Tình trạng được mùa mất giá, được giá mất mùa vẫn thường xuyên xảy ra đối với các sản phẩm chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long, như: lúa gạo, cá tra, tôm,... Trong khi đó, chính sách bảo hiểm nông nghiệp chưa phát triển, chưa tạo nền tảng an toàn cho việc mở rộng tín dụng ngân hàng thương mại đối với nông nghiệp, nông thôn một cách có hiệu quả và đáp ứng nhu cầu vốn của sản xuất. Việc tiêu thụ nông sản, thủy sản không ổn định, nhất là hàng nông sản xuất khẩu. Bởi vậy, không ít tổ chức tín dụng vẫn dè dặt trong việc cho vay vốn đối với nhiều lĩnh vực kinh tế trang trại, doanh nghiệp chế biến...
Thiếu sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành liên quan dẫn đến sự hạn chế trong việc mở rộng cho vay của các ngân hàng thương mại
Việc triển khai Nghị định 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 12-4-2010 còn nhiều bất cập. Cụ thể, nhiều địa phương vẫn thu lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm đối với khoản vay có bảo đảm bằng tài sản khi ngân hàng thương mại cho vay vốn các đối tượng theo quy định, trong khi theo Nghị định thì không được thu phí. Bên cạnh đó, việc chứng minh mục đích sử dụng vốn vay cũng gặp nhiều khó khăn, vì hầu như các hộ nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long không sử dụng hóa đơn, chứng từ theo quy định của Bộ Tài chính. Hơn thế nữa, nhiều hộ gia đình nộp thuế khoán nên không thể xuất trình hóa đơn chi tiết để phù hợp với bộ hồ sơ vay vốn.
Cũng theo quy định của Nghị định này, tổ chức tín dụng thực hiện cho vay không cần bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với một số hạn mức vay cụ thể dành cho hộ nông dân, hợp tác xã. Nhưng trong quá trình triển khai, một số tổ chức tín dụng ở cơ sở vẫn yêu cầu nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mới được vay. Do đó, chỉ những hộ gia đình nông dân có đất, có tài sản mới được vay, còn hộ nông dân không có tài sản thì không vay được.
Quy hoạch chưa hợp lý
Ở nhiều địa phương, quy hoạch nói chung và quy hoạch phát triển các khu công nghiệp nói riêng thiếu hiệu quả, tỷ lệ cho thuê đất, thuê mặt bằng trong nhiều khu công nghiệp đạt thấp. Nhìn chung, các địa phương chưa có quy hoạch ổn định, khoa học, chưa có những biện pháp cụ thể tạo tiền đề để mở rộng vốn tín dụng ngân hàng đến các thành phần kinh tế.
Một số giải pháp tín dụng ngân hàng góp phần tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Cần nghiên cứu, tiếp tục linh hoạt hơn nữa một số cơ chế khuyến khích các ngân hàng thương mại cạnh tranh mở rộng cho vay đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho vay tái cấp vốn, sử dụng nguồn vốn huy động trên thị trường cấp II… Đồng thời, tiếp tục có biện pháp cụ thể hơn nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng cạnh tranh, mở rộng mạng lưới hoạt động ở nông thôn, trong đó có vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Ngân hàng Nhà nước trao đổi với Bộ Tài chính, trình Chính phủ nên có cơ chế chủ động hơn về nguồn vốn cho Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam để mở rộng hơn các chương trình tín dụng chính sách, mở rộng hơn cho vay đối với các đối tượng cận nghèo ở vùng nông thôn nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế về chính sách, về nguồn vốn để hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân cơ sở tại các vùng nông thôn nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng tiếp cận được kênh vay tái cấp vốn (như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam), cũng như các nguồn vốn ủy thác, nguồn vốn của các dự án khác.
Về phía các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại cần tiếp tục mạnh dạn mở chi nhánh, phòng giao dịch tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời, cần tiếp tục có cơ chế điều chuyển vốn nội bộ, cơ chế giao khoán, chỉ tiêu kinh doanh phù hợp hơn với vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng giảm lãi suất hay phí điều hòa vốn, tăng tỷ lệ điều hòa vốn… Các ngân hàng thương mại cần thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động vốn, gia tăng việc huy động vốn dài hạn với mức độ hợp lý hơn để tránh rủi ro thanh khoản.
Các ngân hàng thương mại cần tiếp tục đổi mới hơn nữa, cải tiến thủ tục cho vay phù hợp hơn với thực tiễn tại các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là linh hoạt trong phạm vi cho phép về biện pháp bảo đảm tiền vay.
Về phía địa phương
- Các địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long cần phát triển nông nghiệp chế biến bền vững theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, thâm canh dựa trên lợi thế của từng tiểu vùng. Tiếp tục nâng cao năng lực sản xuất, chế biến và chất lượng hàng nông, thủy sản xuất khẩu, vật liệu xây dựng, phát triển mạnh công nghiệp cơ khí phục vụ nông - ngư - nghiệp. Tập trung cho đào tạo nhân lực, đổi mới máy móc, thiết bị, đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất. Cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của địa phương để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long cần chỉ đạo các sở, ban, ngành trên địa bàn hoàn thiện, phê duyệt quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa: Vùng sản xuất tập trung lúa chất lượng cao; vùng chuyển đổi nuôi trồng thủy, hải sản; khu chăn nuôi tập trung...; công bố quỹ đất có thể giao hoặc cho thuê, đất còn hoang hóa có thể sử dụng để phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, tạo môi trường đầu tư thuận lợi giúp ngân hàng có điều kiện mở rộng đầu tư vào các vùng chuyển đổi. Trong quy hoạch cần chú ý những dự báo về biến đổi khí hậu, về các đập thủy điện xuất hiện trên dòng sông Mê Kông tác động đến vùng hạ lưu là đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở đó có những giải pháp phù hợp.
- Các tỉnh, thành phố thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long cần có chính sách ưu đãi để thúc đẩy công nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản. Đồng thời, rà soát lại các chương trình, dự án đầu tư, phát triển kinh tế để sắp xếp thứ tự ưu tiên một cách hợp lý.
Về phía các cơ quan chức năng liên quan
- Các bộ, ngành cần có nhiều giải pháp hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực chế biến sản phẩm, khả năng tiếp thị nông sản ra thị trường quốc tế, nâng cao uy tín một cách bền vững các sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam ở tất cả thị trường trên thế giới, bảo đảm lợi ích từ các chính sách ưu đãi đến trực tiếp người sản xuất.
- Bố trí tăng vốn đầu tư ngân sách cho nông nghiệp, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khắc phục tình trạng thiếu kết cấu hạ tầng thiết yếu ở các vùng, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin về thị trường, giá cả, dự báo giúp nông dân và doanh nghiệp có hướng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Đây là yêu cầu cấp thiết và chính đáng của doanh nghiệp, hộ nông dân cũng như các tổ chức tín dụng. Đồng thời xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại và quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam.
- Sớm có chính sách bảo hiểm cho nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng yên tâm đưa vốn về nông thôn. Đồng thời, cần tiếp tục có các chương trình hỗ trợ trực tiếp tài chính, tín dụng trong những trường hợp đặc biệt, như khắc phục hậu quả thiên tai, phát triển vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số.
- Nguồn vốn cần cho nhu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn tới là rất lớn, trong khi nguồn lực trong nước có hạn. Vì vậy, nên nghiên cứu, có chính sách thu hút và mở rộng quy mô hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô trong nước và quốc tế để mở rộng cho vay hộ sản xuất, hộ nghèo; tạo cầu nối giữa tín dụng chính thức và phi chính thức. Nên có cơ chế khuyến khích về thuế đối với hoạt động tín dụng ngân hàng tại các khu vực như đã đề cập cần ưu tiên. Hoàn thiện cơ chế, chính sách mua lúa gạo tạm trữ, làm sao lợi ích thực sự đến với người trồng lúa gạo, minh bạch trong thực hiện chính sách nhà nước./.
Ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài đến văn hóa Việt Nam giai đoạn hiện nay  (05/12/2013)
Đoàn Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam dự Đại hội Đảng UMNO Malaysia  (05/12/2013)
Tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối  (05/12/2013)
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp Cố vấn Tổng thống Belarus  (05/12/2013)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên