Thành công của hiện thực và hư cấu trong phim truyện cách mạng Việt Nam về Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trần Hinh Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
17:57, ngày 06-09-2013
TCCSĐT - Chân dung, tính cách và tâm hồn Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà văn hóa lớn, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam đã từng được thể hiện ở nhiều loại hình nghệ thuật, trong đó có điện ảnh mà nổi bật là mảng phim truyện. Dù chưa có những đột phá lớn, song, những tác phẩm điện ảnh về Bác, đến thời điểm này đã có những thành công nhất định và để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả.

Trước hết, phải khẳng định rằng, việc xây dựng một cách chân thực hình ảnh lãnh tụ vĩ đại như Hồ Chí Minh bằng các loại hình nghệ thuật khác đã là khó, với ngôn ngữ điện ảnh thì còn khó gấp bội phần. Bởi điện ảnh là một loại hình nghệ thuật gắn rất chặt chẽ với cuộc sống, như cuộc sống tái hiện. Tính sát thực gần gũi với cuộc sống là một trong những đặc trưng quan trọng nhất của loại hình nghệ thuật này. Khi xem một bộ phim, dù là phim tài liệu hay phim truyện, khán giả luôn có cảm giác đang tiếp xúc với những con người thật, cuộc sống thật, hệt như nó vẫn đang diễn ra trong cuộc sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoài tư cách một công dân dung dị, bình thường, còn là một vị lãnh tụ, một con người hết sức đặc biệt. Việc thể hiện một cách thuyết phục chân dung tính cách, tâm hồn, đạo đức của Người là một thách thức rất lớn đối với loại hình nghệ thuật hư cấu như phim truyện. Nhưng, với tình yêu và lòng kính trọng dành cho vị Cha già dân tộc, các nghệ sĩ điện ảnh đã vượt lên những thách thức, chỉ trong vòng hai thập niên (từ năm 1990 đến năm 2010), điện ảnh cách mạng Việt Nam đã có được những thước phim khá chân thực, sinh động khắc họa hình tượng Bác Hồ. 

Từ năm 1990 đến năm 2010, điện ảnh Việt Nam đã thực hiện năm bộ phim truyện về đề tài Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Đó là các phim: Hẹn gặp lại Sài Gòn (năm 1990, đạo diễn Long Vân, kịch bản Sơn Tùng); Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Công (năm 2003, đạo diễn Nguyễn Khắc Lợi, Viên Thế Kỷ, kịch bản Nguyễn Hữu Mai); Hà Nội mùa đông năm 46 (năm 1997, đạo diễn Đặng Nhật Minh, kịch bản Đặng Nhật Minh, Hoàng Nhuận Cầm); Vượt qua bến Thượng Hải (năm 2010, đạo diễn Triệu Tuấn, Phạm Đông Vũ, kịch bản Hà Phạm Phú, Lê Ngọc Minh, Giả Phi); Nhìn ra biển cả (năm 2010, đạo diễn Vũ Châu, kịch bản Nguyễn Thị Hồng Ngát). Dù chưa thật đầy đủ và có những đột phá, song, những bộ phim này là một sưu tập khắc họa tương đối hệ thống quá trình hình thành nhân cách và sự nghiệp hoạt động cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từ khi còn là một thanh niên yêu nước đến lúc trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Từ những bộ phim về tuổi trẻ Bác Hồ…

Nhìn từ góc độ lịch sử, năm bộ phim truyện về Bác, tuy ra đời vào các thời điểm khác nhau, nhưng nếu hệ thống lại, chúng ta đã có một biên niên bằng hình ảnh khá hoàn chỉnh về cuộc đời của Bác đến thời điểm mùa đông năm 1946. Trong những bộ phim vừa kể thì Nhìn ra biển cả (được thực hiện gần đây nhất) lại là bộ phim khắc họa hình tượng Bác Hồ (diễn viên Minh Đức sắm vai) ở mốc thời gian sớm nhất, khi Người còn là một học sinh trung học ít người biết đến. 

Bộ phim đã lấy bối cảnh thành phố Huế và một số tỉnh miền Trung thời kỳ Nguyễn Tất Thành học tại trường Quốc học Huế, tiếp đó là giáo viên trường Dục Thanh (Phan Thiết) vào những năm 1908 đến 1911. Khoảng thời gian ngắn ngủi này lại là thời điểm đặc biệt quan trọng trong cuộc đời Nguyễn Tất Thành. Bởi đó là thời điểm tình cảm yêu nước, nhận thức về vận mệnh dân tộc trong tư duy của Nguyễn Tất Thành được hình thành và khẳng định có tính định hướng. Nó là cơ sở góp phần lý giải tính cách, tâm hồn vĩ đại Hồ Chí Minh. Với sự lựa chọn này, các nhà làm phim đã xác định rõ nhân vật trung tâm Nguyễn Tất Thành ngay khi còn nhỏ tuổi đã có nhận thức về dân tộc, nhân dân, đất nước với tố chất của một lãnh tụ cách mạng. Tái dựng bối cảnh lịch sử đã lùi khá xa, tư liệu hiện thực về Nguyễn Tất Thành giai đoạn này ít ỏi và nghèo nàn, những tác giả phim Nhìn ra biển cả phải dựa vào trí tưởng tượng nghệ sĩ. Biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát, người từng có nhiều kinh nghiệm làm phim về Bác Hồ, vẫn phải thừa nhận khi viết kịch bản cho bộ phim, trong tay bà không có gì ngoài một số bức thư được lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh và một vài cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với nhà văn Sơn Tùng, một người vốn rất am hiểu về Bác. Lát cắt hiện thực duy nhất mà tác giả có thể dựa vào là khi Nguyễn Tất Thành dạy học tại trường Dục Thanh (Phan Thiết). Từ mốc lịch sử đó, đạo diễn Vũ Châu và ê kíp làm phim đã nỗ lực “bồi đắp” cho câu chuyện phim Nhìn ra biển cả giàu lên về giá trị lịch sử và nghệ thuật. Những chi tiết khắc họa việc tham gia giúp đỡ những người nông dân và tiểu thương trong cuộc biểu tình chống chính sách sưu cao thuế nặng của thực dân Pháp khi học ở Huế, chuyện móc nối với các chí sĩ yêu nước khi dạy học ở trường Dục Thanh, chi tiết tình yêu của người con gái ông chủ hãng nước mắm và sự lựa chọn giữa tình cảm riêng và chí hướng của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành... đều là hư cấu, tưởng tượng nhưng đều bắt nguồn từ cơ sở hiện thực của lịch sử. Vì vậy, bộ phim Nhìn ra biển cả đã để lại nhiều dư vị, tình cảm lắng đọng với người xem, tạo được hiệu quả nghệ thuật.

Hẹn gặp lại Sài Gòn là sự tiếp nối của câu chuyện Nhìn ra biển cả về mặt thời gian nhưng đây là bộ phim được làm sớm nhất. Nếu Nhìn ra biển cả xây dựng hình tượng Bác Hồ từ thời niên thiếu thì Hẹn gặp lại Sài Gòn nói về thời kỳ mà nhân vật đã là một thanh niên trưởng thành hơn, chín chắn hơn và tự tin quyết định những vấn đề quan trọng của cuộc đời. Khó khăn nhất với các nhà làm phim khi thực hiện tác phẩm này là lúc đó nền điện ảnh của nước ta còn nhỏ bé, thiếu thốn trăm bề. Điện ảnh Việt Nam khi ấy vẫn chưa có một bộ phim truyện nào về Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, trong khi một số loại hình nghệ thuật khác như hội họa, âm nhạc, văn học điện ảnh tài liệu đã có những tác phẩm thành công về Bác. Nhưng phim truyện lại là thể loại có ưu thế về khắc họa hình tượng nhân vật. Quyết tâm của ê kíp làm phim được sự giúp đỡ đặc biệt của Thành ủy Sài Gòn - Hồ Chí Minh, thành phố được vinh dự mang tên Người là quyết tâm chính trị rất lớn. Khi dự án làm phim được triển khai, nhà văn Sơn Tùng là người được giao viết kịch bản, Long Vân đạo diễn, diễn viên Tiến Hợi vào vai Nguyễn Tất Thành. Bộ phim kể lại những năm tháng Bác cùng gia đình sống và học tập ở Huế (1895 - 1909), sau đó Người vào Phan Thiết dạy học rồi tìm đường sang Pháp hoạt động cách mạng. Chuyện phim có một số bối cảnh trùng lặp với Nhìn ra biển cả là điều không thể tránh khỏi vì cả hai tác phẩm đều khắc họa một thời điểm lịch sử ở một không gian địa lý cụ thể gắn với sự kiện trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác. Mặc dù kinh phí cho phim Hẹn gặp lại Sài Gòn lúc ấy rất hạn hẹp nhưng đây lại là bộ phim được coi là thành công hơn cả về hai phương diện hiện thực và hư cấu nghệ thuật trong việc xây dựng hình tượng Hồ Chí Minh. Để tái hiện một hình tượng lịch sử quen thuộc, gần gũi và nổi tiếng như Hồ Chí Minh, nếu không đủ tài năng và sự cẩn trọng, người nghệ sĩ rất dễ sa đà vào hư cấu mà làm mất đi tính chân thực và sự thuyết phục đối với nhân vật. Thật may, phim Hẹn gặp lại Sài Gòn đã không bị rơi vào tình trạng ấy. Dựa vào “hồn cốt hiện thực”, các tác giả của bộ phim đã hình tượng hóa nhân vật vừa đủ để người xem vẫn lưu giữ được những ấn tượng có thật về Bác Hồ, tính chân thực vẫn được bảo đảm. Đó là ý chí độc lập dân tộc và “tình cảm yêu nước, thương nòi” của Hồ Chí Minh. Mọi hành động, lời nói, cử chỉ, tâm tư suy nghĩ của nhân vật trong phim đều dựa trên cái trục hiện thực này. Chẳng hạn, về ngoại hình, nét trí tuệ được thể hiện qua đôi mắt rực sáng của Người, được diễn viên Tiến Hợi thể hiện khá thành công; chi tiết trước lúc đi xa, Nguyễn Tất Thành đến viếng mộ người mẹ thân yêu với tình cảm sâu nặng; hoặc trong cảnh bữa cơm với gia đình Út Vân, câu trả lời khéo léo ý nhị của Nguyễn Tất Thành đáp lại tấm lòng của người cha cô gái khi ngỏ ý tác thành đôi lứa cho con gái và chàng trai trẻ tuổi đã thực sự là “điểm nhấn” đắt giá của bộ phim. Chi tiết này hoàn toàn phù hợp với lô gích tâm hồn, tính cách của lãnh tụ Hồ Chí Minh, có sự hài hòa, nhuần nhuyễn giữa hiện thực và hư cấu trong việc khắc họa hình tượng nhân vật.

… Đến những thước phim về hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh

Chặng đường trong đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh được tiếp nối bởi hai bộ phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông Vượt qua bến Thượng Hải do hãng phim Hội Nhà văn thực hiện, cùng hợp tác với điện ảnh Trung Quốc, dù được sản xuất ở hai thời điểm khác nhau, nhưng lại có nhiều điểm giống nhau cả về bối cảnh lẫn thời gian câu chuyện. So với hai bộ phim đầu, Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông Vượt qua bến Thượng Hải có nhiều lợi thế hơn trong cả việc tái hiện hiện thực và hư cấu xung quanh hình tượng Bác Hồ. Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông (diễn viên Trần Lực trong vai Bác Hồ) là bộ phim mô tả về phiên tòa có tính lịch sử vào năm 1931 của Nguyễn Ái Quốc (Tống Văn Sơ) tại Hồng Kông, còn Vượt qua bến Thượng Hải kể về cuộc thoát hiểm của Nguyễn Ái Quốc từ Hạ Môn, qua Thượng Hải và cuối cùng là cửa khẩu quốc tế Trung - Xô, trước khi Người lên tàu thủy sang Liên Xô (cũ). Bộ phim đã có một đường dây những nhân vật lịch sử có thật như bà Tống Khánh Linh, nhà cách mạng Nguyễn Lương Bằng, nhà văn Tào Ngu, nhà báo Pháp Pôn Vay-ăng Cu-tuy-a-ri-ê (Paul Vaillant Couturier)... làm nền và dẫn dắt câu chuyện, gia tăng sức thuyết phục và tính chân thực, làm sâu sắc thêm hình tượng Hồ Chí Minh. Bám vào sự thật lịch sử là “cuộc thoát hiểm” của Nguyễn Ái Quốc (diễn viên Minh Hải sắm vai) khỏi Thượng Hải vào cuối năm 1933, đầu năm 1934, bộ phim này lại không hoàn toàn giống Nhìn ra biển cả Hẹn gặp lại Sài Gòn trong cách thể hiện hiện thực và hư cấu hình tượng nhân vật. Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông Vượt qua bến Thượng Hải lấy bối cảnh ở nước ngoài, vào thời điểm nhân vật đã được nhiều người biết đến qua nhiều năm hoạt động cách mạng. Ở hai phim này, làm sao để sự phối hợp giữa hiện thực và hư cấu trong phim tạo ra được tính chân thực, sức thuyết phục người xem trong và ngoài nước là một thách thức lớn đối với các tác giả. 

Với Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, đạo diễn Nguyễn Khắc Lợi đã bám chắc hai tình huống hấp dẫn và có ý nghĩa lịch sử là vụ án Nguyễn Ái Quốc (do chính quyền Anh dựng lên) và cuộc giải cứu của những người cộng sản Trung Hoa với người tù Hồ Chí Minh. Mô tả sự kiện có thật - chín phiên tòa xét xử Nguyễn Ái Quốc và sự giúp đỡ chân tình của vị luật sư người Anh Lô-dơ-bai (Loseby), các nhà làm phim đã tái hiện được hình ảnh một Hồ Chí Minh với đầy đủ nét tính cách, ý chí và tâm hồn, suy nghĩ và hành động của một con người yêu nước nồng nàn, sẵn sàng hy sinh mọi thú vui cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vừa yêu đời, yêu người, vĩ đại nhưng cũng rất đỗi bình thường. Các khuôn hình trong bộ phim được cắt gọt kỹ càng, hành động nhanh, đối thoại sắc sảo. Phần hư cấu của phim tuy không thật nhiều so với các bộ phim khác cùng đề tài, nhưng nhờ diễn xuất có nghề của diễn viên Trần Lực, người xem đã cảm nhận được một phần đời rất đẹp của người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc.

Vượt qua bến Thượng Hải, bộ phim nối tiếp cuộc hành trình của Nguyễn Ái Quốc từ Hồng Kông đến Hạ Môn, Thượng Hải để từ đó tìm đường sang Liên Xô (cũ) lại mang đậm màu sắc chính luận. Với bộ phim này, các tác giả đã có nhiều không gian hơn cho những hư cấu, tưởng tượng, vì thế mà phim mang nhiều sắc thái hơn. Người xem có thể tìm thấy ở Vượt qua bến Thượng Hải một sự pha trộn của nhiều thể loại: phim chính luận lịch sử, phim tình cảm xã hội, phim hành động trinh thám... Câu chuyện phim nhờ thế cũng bớt đi phần đơn điệu, khô khan, một chiều của thể loại phim chính luận. Phim mô tả sự kiện Nguyễn Ái Quốc cùng người cận vệ tên Hổ (nhân vật hư cấu) tạm lánh trong tư dinh của một người Hoa giàu có tốt bụng tại khu phố Hạ Môn để tránh sự truy lùng của mật thám Pháp và chính quyền Tưởng Giới Thạch (đây là chi tiết hư cấu nhằm nói về mối liên kết với phong trào cộng sản quốc tế của Bác Hồ thời gian Người hoạt động ở nước ngoài). Một chi tiết hư cấu thú vị khác rất cần được nhắc tới là mối quan hệ giữa nhân vật nữ bác sĩ Phương Thảo (quê Hội An) và người anh trai bị thất lạc từ hồi bé của cô có tên Ngũ Lang với Nguyễn Ái Quốc. Thông qua hình tượng Phương Thảo, đạo diễn phim có dụng ý nói về tình cảm cách mạng của bà con Việt kiều xa Tổ quốc đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh, đồng thời muốn tạo ra một tình cảm đơn phương từ phía nhân vật để “bình dị hóa” hình tượng vĩ đại Hồ Chí Minh, khiến người xem cảm nhận được cả sự vĩ đại và bình dị nơi Bác, như tất cả những người Việt Nam bình thường khác.

Bộ phim được thực hiện ngay sau Hẹn gặp lại Sài Gòn trong chuỗi năm phim truyện về đề tài Bác Hồ là Hà Nội mùa đông năm 46 (diễn viên Tiến Hợi trong vai Bác Hồ) lại tái hiện bối cảnh hiện thực gần nhất, in dấu ấn đậm nét về một thời điểm cam go của lịch sử dân tộc. Phim lấy tên Hà Nội mùa đông năm 46, nhưng sự kiện trung tâm được “gói” ở thời khắc quan trọng trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Mùa đông năm 1946, nước Việt Nam vừa mới ra đời, còn rất non trẻ đứng trước nguy cơ bị thực dân Pháp xâm lược trở lại. Do bối cảnh lịch sử trong phim ở thời điểm gần hơn nên đây là bộ phim có nhiều thuận lợi nhất trong việc khám phá và xây dựng hình tượng Bác Hồ. Để tạo dựng bối cảnh, các tác giả phim Hà Nội mùa đông năm 46 hẳn cũng không khó khăn nhiều về tư liệu. Cuối năm 1946, dù đã hết sức cố gắng để giữ gìn và bảo vệ hòa bình, cuộc đàm phán của Hồ Chí Minh với chính quyền Pháp tại Hội nghị Phông-ten-nơ-bờ-lô (Fontainebleau) bất thành. Để có thời gian gây dựng lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, Hồ Chí Minh đã buộc phải ký Hiệp định hòa hoãn với Pháp. Đó là một thời khắc hết sức khó khăn, nghiệt ngã đối với Nhà nước Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xoay quanh cuộc đấu trí giữa Hồ Chí Minh với thực dân Pháp vào những ngày mùa đông lịch sử của năm 1946, hình tượng Hồ Chí Minh đã được đạo diễn Đặng Nhật Minh khắc họa rõ nét quan điểm: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”, “chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Bộ phim đã tập trung vào những hoạt động đối nội và đối ngoại của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này. Về đối nội, Hồ Chí Minh phải kêu gọi và thuyết phục toàn dân trước quyết sách chính trị của đất nước trong hoàn cảnh vô cùng khó xử của Người, khi Tổ quốc Việt Nam đang ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Về hoạt động ngoại giao, phim khẳng định tầm nhìn, trí tuệ của Bác trong những giờ khắc quyết định lịch sử. Những chi tiết hiện thực và hư cấu đan cài khiến người xem rất khó phân biệt nhưng lại có tác dụng làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn, phong thái ung dung, tự tại của con người Hồ Chí Minh. Trong giờ phút nguy nan, Người vẫn giữ được vẻ bình thản, ung dung, tự tại và đời thường khi tiếp đại diện cao ủy toàn quyền Pháp Xanh-tơ-ny (Saiteny) ngay trên giường bệnh tại Bắc Bộ Phủ; trò chuyện, thậm chí hài hước với họa sĩ Hân ngay ở thời điểm Người đang tràn ngập nỗi lo lắng ưu tư cho vận mệnh nước nhà; quan tâm đến chuyện riêng tư của luật sư Lâm; đồng ý để đứa con của người phục vụ cùng được lên Việt Bắc sau khi Hà Nội tiêu thổ kháng chiến...

Thật khó để phân tích đầy đủ, chi tiết mối quan hệ giữa yếu tố hư cấu và hiện thực trong việc xây dựng hình tượng Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh qua một vài tác phẩm phim truyện cách mạng Việt Nam bởi Bác của chúng ta là một con người vĩ đại, hiện thực và huyền thoại luôn xen kẽ, đan cài. Việc tái hiện vẻ đẹp tâm hồn, tích cách, tình cảm của Người sao cho chân thực và thuyết phục là điều không dễ. Diễn viên Trần Lực, người đóng vai Bác Hồ trong phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông đã tâm sự rằng, làm phim về Bác Hồ, dù ở hoàn cảnh nào, do “các chi tiết xung đột va chạm bên ngoài của nhân vật rất ít, nên có nhiều cái khó, chúng tôi cũng tâm niệm là phải thể hiện sao cho toát lên được tính cách một con người vĩ đại nhưng bình dị”. Hơn nữa, làm phim về một nhân vật lịch sử có thật, lại vô cùng quen thuộc và gần gũi, thân thiết như Bác Hồ bao giờ cũng là một thử thách lớn. Tình yêu và lòng kính trọng dành cho Bác đòi hỏi tất cả chúng ta cần tiếp tục tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo để làm nên nhiều tác phẩm thành công hơn trong tương lai, không chỉ riêng ở bộ môn nghệ thuật thứ bảy./.