Hợp tác quốc tế về an ninh, quốc phòng của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI

Lưu Thúy Hồng TS, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
20:30, ngày 06-06-2018

TCCS - Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các vấn đề an ninh, nhất là an ninh phi truyền thống xuất hiện với tần suất và mức độ ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến hầu hết các quốc gia và khu vực; nhiều vấn đề an ninh mà một quốc gia đơn lẻ không thể tự giải quyết. Do đó, hợp tác quốc tế về an ninh - quốc phòng trở thành nhiệm vụ quan trọng trong công tác đối ngoại quân sự của nhiều nước, trong đó có Việt Nam.





Quan điểm của Đảng ta về hợp tác quốc tế về an ninh, quốc phòng

Việt Nam thực sự tiến hành hợp tác quốc tế về an ninh, quốc phòng kể từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX, đặc biệt là từ sau Đại hội VIII của Đảng. Tại Đại hội IX, tuy chưa khẳng định rõ ràng nội dung về đối ngoại an ninh - quốc phòng nhưng trong các văn kiện, Đảng ta đã phần nào đề cập tới vấn đề này trong các nhiệm vụ đối ngoại. Tại Đại hội X, Đảng ta đề cập tới việc “Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc phòng và an ninh”(1). Tuy nhiên, đến Đại hội XI, Đảng ta khẳng định “Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”(2), “Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, đối ngoại nhân dân; đối ngoại, quốc phòng và an ninh”(3), “Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”(4)... Tại Đại hội XII, quan điểm về hội nhập an ninh - quốc phòng tiếp tục được nêu rõ: “Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”(5); “Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế để duy trì môi trường hòa bình, củng cố quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia, khẩn trương hoàn thành phân định biên giới. Tham gia hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc phù hợp với điều kiện của Việt Nam”(6), “Triển khai đồng bộ hoạt động đối ngoại, cả về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội”(7). Như vậy, qua các kỳ đại hội quan điểm của Đảng ta về hợp tác, hội nhập an ninh, quốc phòng có những bước phát triển, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng ở cấp độ song phương

Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với 80 nước, bao gồm cả các cường quốc trên thế giới; đã thiết lập tùy viên quốc phòng Việt Nam tại 32 nước và có 45 nước thiết lập tùy viên quốc phòng hoặc kiêm nhiệm tại Việt Nam. Quan hệ quốc phòng của Việt Nam với các nước ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả hơn. Quan hệ hợp tác quốc phòng được nhiều nước đối tác coi là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ hợp tác với Việt Nam(8). Bên cạnh việc coi trọng quan hệ hợp tác về an ninh và quốc phòng với các nước láng giềng (Lào, Cam-pu-chia, Thái Lan, Phi-líp-pin, Xin-ga-po...), Việt Nam cũng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng với các nước, các khối nước, như Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, I-xra-en, Cu-ba, Ấn Độ, I-ta-li-a, Liên minh châu Âu (EU),... đặc biệt chú trọng tới quan hệ hợp tác quốc phòng với các nước lớn, có ảnh hưởng chi phối trong khu vực và trên thế giới, như Nga, Trung Quốc và Mỹ.

Với Nga, kế thừa từ mối quan hệ hợp tác an ninh - quốc phòng với Liên Xô trước đây, hợp tác an ninh, quốc phòng Việt Nam - Nga luôn đạt hiệu quả cao, đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự. Tháng 11-2008, hai nước ký “Chiến lược hợp tác kỹ thuật quân sự trong giai đoạn đến 2020” và cụ thể hóa chiến lược này bằng các kế hoạch năm và những hợp đồng cụ thể. Từ năm 2013, Bộ Quốc phòng hai nước đã thống nhất xây dựng cơ chế Đối thoại Chiến lược quốc phòng cấp Thứ trưởng. Nga khẳng định sẽ giúp đỡ Việt Nam về khoa học, kỹ thuật, công nghệ, và trong đào tạo sĩ quan chỉ huy - tham mưu; tăng cường hơn nữa công tác bảo dưỡng, bảo trì, cung cấp các trang thiết bị, phụ tùng cho Việt Nam; đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học, sản xuất công nghiệp quốc phòng, hợp tác trong lĩnh vực hải quân, khai thác dầu khí. Như vậy, cho tới nay, quan hệ quốc phòng Việt Nam - Nga phát triển đa dạng, đóng góp thiết thực vào việc nâng cao tiềm lực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Với Trung Quốc, Việt Nam chủ trương thúc đẩy hợp tác quốc phòng trên cơ sở hợp tác chiến lược toàn diện, nỗ lực giải quyết mâu thuẫn bằng các biện pháp hòa bình khi có vấn đề xảy ra, nhằm mang lại lợi ích cho cả hai bên. Trong thời gian qua, quân đội hai nước tiếp tục tăng cường xây dựng lòng tin, thúc đẩy các quan hệ hợp tác quân sự thiết thực, hiệu quả. Từ năm 2005, Việt Nam và Trung Quốc phối hợp tuần tra liên hợp nghề cá thường niên trên Vịnh Bắc Bộ. Năm 2012, Việt Nam và Trung Quốc đã đồng chủ trì Hội nghị nhóm chuyên gia của Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) và tổ chức hoạt động về hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa. Để tăng cường sự tin cậy về chính trị, xây dựng quan hệ gắn bó giữa quân đội hai nước, Việt Nam và Trung Quốc thống nhất tiếp tục thường xuyên trao đổi đoàn các cấp, chú trọng hợp tác đào tạo, đẩy mạnh quan hệ giao lưu, hợp tác, phối hợp giữa hải quân, biên phòng, cảnh sát biển. Năm 2013, hai nước đã ký kết 10 văn kiện, trong đó có “Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc”, “Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc(9). Tháng 1-2017, trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai bên ra Thông cáo chung 10 điểm, thể hiện các nhận thức chung đã đạt được cũng như các phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện trong thời gian tới. Hai bên cũng chứng kiến lễ ký kết 15 văn kiện hợp tác, trong đó có Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đến năm 2025, Hiệp định khung hợp tác cửa khẩu biên giới đất liền giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Tổng cục Hải quan Trung Quốc...

Với Mỹ, thực hiện phương châm “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, hợp tác an ninh - quốc phòng giữa hai nước có những bước phát triển nhanh chóng, đánh dấu bằng việc tổ chức ngày càng nhiều các hoạt động đối thoại an ninh chính trị, quân sự cấp cao nhằm tăng cường sự hiểu biết, tin cậy và hỗ trợ lẫn nhau. Trên cơ sở triển khai Biên bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng được hai bên ký vào tháng 9-2011, quan hệ song phương trong lĩnh vực này tiếp tục được thúc đẩy. Sau quyết định của Chính phủ Hoa Kỳ (tháng 10-2014) dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, hai nước đã cam kết đẩy mạnh thương mại, quốc phòng. Mỹ sẵn sàng hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm, thông tin, đào tạo nhân viên cho lực lượng thực thi luật pháp trên biển của Việt Nam, cũng như hỗ trợ cho Việt Nam một số trang thiết bị cho lực lượng thực thi luật pháp trên biển (cung cấp các tàu, xuồng tuần tra trên biển), hợp tác về lĩnh vực quân y và tham vấn cơ chế quốc phòng giữa các nước ASEAN, ASEAN mở rộng. Đến tháng 6-2015, hai nước đã ký kết “Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ” (tháng 6-2015) với 5 nội dung lớn gồm: tăng cường tham vấn chính sách; hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh, như rà phá bom mìn và tẩy độc đi-ô-xin; hợp tác gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu trợ; và hợp tác trong lĩnh vực an ninh biển trên cơ sở luật pháp quốc tế và luật pháp mỗi bên. Đặc biệt, chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (tháng 7-2015) đã thể hiện sự công nhận của cường quốc số 1 thế giới đối với tính chính danh và hệ thống chính trị của Việt Nam, góp phần củng cố, giữ vững môi trường hòa bình ổn định của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp như hiện nay. Ngoài ra, hai bên cũng tiến hành trao đổi các chuyến thăm các cấp về quốc phòng. Trong chuyến thăm Hoa Kỳ vào tháng 8-2017 của Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam do Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu, hai bên đã khẳng định quan hệ quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ tiếp tục được phát triển phù hợp với Bản ghi nhớ về thúc đẩy hợp tác quốc phòng, Tuyên bố Tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng và khuôn khổ quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước.

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng ở cấp độ đa phương

Hợp tác quốc phòng - an ninh đa phương của Việt Nam chính thức được khởi động kể từ khi gia nhập Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF, năm 1994) và ASEAN (năm 1995). Tuy nhiên, sự hội nhập này mới chỉ dừng ở cấp chuyên viên là chính(10). Bước sang thế kỷ XXI, sau khi đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam với tiềm lực và vị thế mới đã xây dựng các cơ chế hợp tác và tham gia sâu nhiều diễn đàn, hội nghị, hội thảo ở cấp khu vực, coi đây là môi trường thích hợp để nâng cao vị thế, tiềm lực, bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ vững an ninh, quốc phòng, học tập và trao đổi kinh nghiệm. Điển hình là sự tham gia của Việt Nam trong các cơ chế hợp tác, như ARF, Đối thoại Shangri-La, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), ADMM+,... và việc chính thức tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Trong ARF, với tư cách là một trong những nước thành viên đầu tiên, Việt Nam đã tham gia đầy đủ các hoạt động của Diễn đàn trên tất cả các kênh, luôn kiên trì giữ vững tính chất và các nguyên tắc đã thỏa thuận của ARF, duy trì vai trò trung tâm của ASEAN, nhất trí ARF là một quá trình tiệm tiến với bước tiến phù hợp, trong đó xây dựng lòng tin là trọng tâm xuyên suốt. Việt Nam đã hai lần đảm nhiệm thành công cương vị Chủ tịch ARF (nhiệm kỳ 2000 - 2001 và nhiệm kỳ 2009 - 2010)(11), góp phần thúc đẩy và tăng cường sự hợp tác thiết thực hơn giữa các nước thành viên ARF trong việc đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, thúc đẩy tiến trình hợp tác phát triển của ARF và duy trì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.

Với Đối thoại Shangri-La, Việt Nam đã cử đại diện tham dự ngay từ Đối thoại lần thứ nhất (năm 2008). Việt Nam tham dự cơ chế này ở cấp bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Thông qua các tham luận của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, lãnh đạo Bộ Quốc phòng về các nội dung, như “Chung tay xây dựng lòng tin chiến lược”; “Thúc đẩy ngoại giao quốc phòng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương”, “Cấu trúc an ninh khu vực đang định hình” hay “Ngăn ngừa và quản lý xung đột”, Việt Nam đã gửi đi thông điệp về sự cần thiết phải có lòng tin chiến lược trong quan hệ quốc tế, cũng như thiện chí mong muốn ngăn ngừa và giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình.

Trong ASEAN, xác định rõ vai trò quan trọng của hợp tác quốc phòng, an ninh khu vực đối với sự lớn mạnh của Hiệp hội, Việt Nam luôn chủ động thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc phòng, an ninh khu vực. Trong quá trình tham gia ADMM, Việt Nam có nhiều nỗ lực tăng cường đoàn kết nội khối, thúc đẩy hợp tác mới đối phó với các thách thức an ninh khu vực. Năm 2010, với tư cách Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã tổ chức thành công các hội nghị quốc phòng - quân sự ASEAN, trong đó có ADMM4. Tại hội nghị này, Việt Nam đã hiện thực hóa thành công cơ chế ADMM+, một hợp tác mới về quốc phòng - an ninh giữa ASEAN với các nước đối tác đối thoại, phù hợp với lợi ích an ninh và hợp tác khu vực. Sự ra đời của cơ chế ADMM+ là dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của ASEAN, đánh dấu sự trưởng thành của ASEAN trên bình diện hợp tác quốc phòng, an ninh nội khối và khu vực, đồng thời cũng phản ánh đóng góp quan trọng của Việt Nam. Với cơ chế cộng 8, trong đó có các cường quốc quân sự trên thế giới, ADMM+ đã tạo cơ hội để các sáng kiến của ADMM có thể tranh thủ và kết hợp được các nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài, đưa ADMM+ trở thành một trong những cơ chế đa phương hiệu quả và thực chất nhất hiện nay tại khu vực. Bên cạnh đó, Việt Nam còn đề xuất nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy hợp tác, bảo đảm an ninh toàn diện trên biển và quản lý xung đột ở Biển Đông. Tại ADMM9 (tháng 4-2015), Việt Nam đề xuất tăng cường hợp tác quốc phòng giữa các nước ASEAN, trong đó chú trọng triển khai hiệu quả các biện pháp xây dựng lòng tin, ngăn ngừa và quản lý các nguy cơ có thể dẫn đến va chạm và xung đột thông qua các biện pháp tham vấn, trao đổi thông tin, sử dụng đường dây liên lạc trực tiếp, tiếp xúc cấp cao và thúc đẩy hoạt động chung giữa các lực lượng quân đội, cũng như tăng cường phối hợp quân - dân sự. Việt Nam cũng đề nghị xác lập một cơ chế ứng phó kịp thời với những thách thức mới nổi lên. Trong khuôn khổ hợp tác ADMM+, Việt Nam thể hiện vai trò tích cực, đề xuất nhiều sáng kiến duy trì động lực hợp tác quốc phòng - an ninh giữa các nước ASEAN và các đối tác đối thoại. Với mong muốn, quyết tâm cùng các nước thành viên ASEAN mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với các bên đối tác đối thoại, Việt Nam tổ chức thành công ADMM+ lần đầu tiên tại Hà Nội (năm 2010). Hội nghị thống nhất triển khai hoạt động năm nhóm chuyên gia trên năm lĩnh vực ưu tiên hợp tác là: an ninh biển, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, quân y, chống khủng bố, gìn giữ hòa bình. Ngoài ra, tại ADMM+ lần thứ hai (năm 2013), Việt Nam tiếp tục đề xuất lĩnh vực hợp tác mới trong ADMM+ là khắc phục hậu quả bom mìn, vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh và các cuộc xung đột trong khu vực (gọi tắt là Hành động mìn nhân đạo) - lĩnh vực hợp tác thứ sáu trong khuôn khổ ADMM+. Thông qua việc đồng chủ trì Nhóm chuyên gia ADMM+ về hành động mìn nhân đạo giai đoạn 2014 - 2017, Việt Nam thúc đẩy hợp tác giữa các nước thành viên trong khắc phục hậu quả bom mìn, vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh.

Việt Nam cũng cùng các quốc gia đồng chủ trì khác tổ chức thành công Diễn tập thực địa về hành động mìn nhân đạo và Gìn giữ hòa bình tại Ấn Độ (tháng 3-2016); Hội nghị Nhóm chuyên gia ADMM+ về hành động mìn nhân đạo tại Việt Nam (tháng 10-2016); thể hiện vị thế, vai trò trách nhiệm trong Diễn tập thực địa ADMM+ về an ninh hàng hải và chống khủng bố tại Bru-nây, Xin-ga-po (tháng 5-2016) khi lần đầu tiên cử tàu chiến và lực lượng đặc công tham gia, đồng thời có những đóng góp tích cực trong Diễn tập thực địa về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa và quân y tại Thái Lan (tháng 9-2016). Những đóng góp của Việt Nam vào tiến trình hiện thực hóa cơ chế và khuôn khổ hợp tác quốc phòng giữa ASEAN với các nước đối tác đối thoại đã góp phần thúc đẩy hợp tác về quốc phòng của ASEAN trở nên mạnh mẽ và hiệu quả hơn, gắn kết sức mạnh cả trong và ngoài khu vực, nhằm duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực, và đã được Hiệp hội và cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Ở cấp độ toàn cầu, là thành viên chính thức của Liên hợp quốc từ tháng 9-1977, cho đến nay, Việt Nam luôn nỗ lực đồng hành cùng các quốc gia thành viên, đóng góp quan trọng vào việc duy trì hòa bình, an ninh quốc tế. Biểu hiện sinh động là những bước đi chủ động của Việt Nam trong tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Ngay từ năm 2005, Việt Nam đã xem xét vấn đề này và từng bước tiến hành các công tác chuẩn bị. Với chủ trương tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, trước mắt là lĩnh vực công binh, quân y và quan sát viên quân sự, Việt Nam thành lập Trung tâm gìn giữ hòa bình để nâng cao chất lượng điều hành và huấn luyện nhân sự, đáp ứng cao nhất các yêu cầu tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Từ hai sĩ quan đầu tiên (năm 2014), đến nay Việt Nam đã cử 19 lượt cán bộ làm nhiệm vụ sĩ quan liên lạc, tham mưu và quan sát viên tại Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở Nam Xu-đăng và Cộng hòa Trung Phi(12). Hiện Việt Nam đang triển khai công tác chuẩn bị để đưa bệnh viện dã chiến cấp 2, đại đội công binh tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình ở các phái bộ thích hợp. Đây là những hành động thực tế, thể hiện một cách sinh động nhất trách nhiệm của Việt Nam trong việc xây dựng lòng tin, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới; thể hiện tinh thần tích cực, chủ động hội nhập quốc tế về quốc phòng của Đảng và Nhà nước, nâng cao uy tín của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, do trình độ còn nhiều chênh lệch so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới nên việc tham gia các cơ chế và hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương gặp không ít hạn chế, chưa đủ khả năng tham gia sâu rộng và toàn diện vào các hoạt động đó.

Cùng với hội nhập về kinh tế, chính trị, văn hóa, hội nhập về an ninh, quốc phòng đã góp phần giúp Việt Nam củng cố và duy trì hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế đất nước. Thông qua các hoạt động hội nhập an ninh - quốc phòng, Việt Nam đã thúc đẩy và mở rộng quan hệ an ninh - quốc phòng với các nước và các tổ chức an ninh khu vực và quốc tế. Thực tiễn cho thấy, hội nhập tích cực và chủ động về an ninh - quốc phòng của Việt Nam là một trong những công cụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay để giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ các lợi ích quốc gia của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế, góp phần tạo môi trường ổn định để phát triển kinh tế, phát triển đất nước.

Thời gian tới là giai đoạn đầy khó khăn, thử thách đối với Việt Nam. Môi trường quốc tế có nhiều biến động phức tạp, khó lường, kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, tình hình chính trị, an ninh có những diễn biến phức tạp mới. Nhiều nước trên thế giới tuy coi trọng quan hệ với Việt Nam, song chưa coi Việt Nam là một hướng ưu tiên. Một số đối tác có những vấn đề phức tạp có thể gây căng thẳng trong quan hệ với Việt Nam, thậm chí đe dọa chủ quyền, an ninh chính trị của Việt Nam. Kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương tuy phát triển năng động song cũng gặp nhiều khó khăn. Cộng đồng ASEAN tuy đã hình thành nhưng cũng gặp phải nhiều thách thức về việc làm sao duy trì gắn kết ASEAN, giữ vững vai trò trung tâm trong cấu trúc khu vực đang hình thành. Trong bối cảnh đó và với nguồn lực có hạn, đối ngoại Việt Nam cần có những ưu tiên về mục tiêu, đối tác, lĩnh vực và công cụ để phục vụ tốt nhất lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong đó, hai mục tiêu quan trọng hàng đầu trong thời gian tới là giữ vững an ninh và phát triển đất nước. Tuy nhiên, giữa hai mục tiêu này, mục tiêu số 1 phải là phát triển vì có phát triển Việt Nam mới có điều kiện để thực hiện được các lợi ích an ninh, chủ quyền quốc gia. Đồng thời thực hiện tốt mục tiêu vị thế sẽ góp phần nâng cao ảnh hưởng quốc tế của Việt Nam, góp phần phục vụ lợi ích an ninh và phát triển đất nước./.

------------------------------------------------------

(1) http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/Thongtintonghop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000715&articleId=10038386
(2), (3), (4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,, Hà Nội, 2011, tr. 46, 47, 233
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 149
(6), (7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 313, 314
(8)  http://tapchiqptd.vn/vi/van-de-chung/day-manh-hoi-nhap-quoc-te-va-doi-ngoai-ve-quoc-phong-trong-tinh-hinh-moi/5055.html
(9) Trần Thị Hải Yến: “Chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 7- 2013
(10) Nguyễn Hùng Sơn: Hiến chương ASEAN và việc xây dựng cộng đồng ASEAN, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009
(11) Nguyễn Chí Vịnh: Hợp tác quốc phòng ASEAN và tiến trình hiện thực hóa Cơ chế hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng, Hà Nội, 2010
(12)  http://vov.vn/quan-su-quoc-phong/viet-nam/viet-nam-tham-gia-gin-giu-hoa-binh-lhq-vinh-du-va-trach-nhiem-628973.vov