Nông dân đang cần gì?

Mai Văn Quyền
15:06, ngày 17-08-2010

TCCS - Khi bàn về nông nghiệp - nông dân - nông thôn, đông đảo các tầng lớp cán bộ, nông dân đều có những trăn trở về đất đai, đào tạo nghề và vốn. Những vấn đề này hết sức bức xúc đối với nông dân. Nếu các nhà hoạch định chính sách không đưa ra biện pháp đúng đắn và thích hợp để giải tỏa những trăn trở trên thì mục tiêu cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ năm 2020 trở đi, sẽ khó thành hiện thực.

Chính sách, phương pháp đào tạo đã quyết định tích tụ ruộng đất, vốn

Gần 25 năm đổi mới, nước ta đã có được bước tiến khá nhanh về mọi mặt. Đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa - xã hội ở nông thôn đang được đổi thay từng ngày. Bên cạnh đó, sự phân hóa giàu - nghèo cũng càng lớn, chiều hướng khoảng cách giữa hai cực này ngày một xa. Để xã hội ở nông thôn phát triển hài hòa và bền vững, Nhà nước phải có biện pháp thích hợp để rút ngắn khoảng cách này lại, theo hướng nâng cuộc sống của người nghèo tiến lên.

Muốn vậy, Nhà nước cần có một hệ thống chính sách đủ cơ sở khoa học, kịp thời và thích hợp cho từng nhóm hộ ở từng vùng. Vì nông dân nước ta còn quá nghèo và đã quen sống trong cảnh nghèo từ nhiều thế hệ cho đến nay, nên còn thiếu thốn mọi thứ. Để giúp nông dân vượt qua mọi thiếu thốn thì không thể dùng phương pháp "trợ cấp cho không" được mà phải dùng biện pháp "trao cho họ cần câu" và "dạy cho họ cách bắt cá", từ đó làm cho người nông dân tự vượt lên khỏi vòng nghèo khó. Thực chất đó là những chính sách và phương pháp đào tạo nghề. Chính sách này đúng cả khi muốn tích tụ ruộng đất và lẫn khi quyết định cho nông dân vay vốn. Khi tích tụ ruộng đất thì người có vốn, có kiến thức sẽ quản lý số lượng ruộng đất nhiều. Còn nhóm người ít vốn, thiếu kỹ năng sẽ không còn ruộng đất trong tay. Trước khi quyết định trao ruộng đất cho người khác, bản thân họ phải được khẳng định sẽ sinh sống bằng nghề gì, đời sống sẽ ra sao thì họ mới yên tâm trao ruộng đất sang tay người khác quản lý. Ngược lại, người quản lý ruộng đất cũng cần được đào tạo bằng những kỹ năng phù hợp đối với hoàn cảnh của họ. Khi được vay vốn, người dùng vốn vay phải biết sử dụng đồng vốn vào loại công việc gì để sinh lợi và gặp rủi ro tối thiểu thì đồng vốn được vay mới có hiệu quả. Đó chính là kỹ năng của tay nghề.

Như vậy, giữa đào tạo và kế hoạch sử dụng phải đồng bộ, kế hoạch sản xuất phải đi trước, theo sau là đào tạo đúng ngành để phục vụ cho kế sinh nhai của người được đào tạo. Để đạt được kết quả trên, Nhà nước cần phải có quy hoạch xây dựng các dự án lâu dài, trên cơ sở nội dung của từng dự án mà mở lớp đào tạo mới đúng ngành nghề và khi đào tạo ra học viên sẽ có việc làm phù hợp, tránh được hiện tượng "no nghề - đói việc".

Phân nhóm nghèo, cận nghèo, trung bình, khá giả chỉ là tương đối

Thực trạng của nông dân nước ta hiện nay, có thể chia thành 4 nhóm chính: nhóm người nghèo (bao gồm người ốm đau bệnh tật, neo đơn, mất sức lao động, thiếu vốn, thiếu ruộng đất); nhóm cận nghèo; nhóm trung bình, khá giả và nhóm nông dân giàu có. Trong 4 nhóm này, nhóm nghèo và cận nghèo rất dễ chuyển hóa cho nhau. Bởi lẽ, tiêu chí phân hộ nghèo của nước ta quá thấp, theo tiêu chí cũ thì người có thu nhập bình quân 200.000 đồng/ tháng trở xuống sẽ thuộc diện nghèo, người thu nhập trên 200.000 đồng/ tháng sẽ thoát nghèo, được vượt lên vào nhóm cận nghèo. Nếu vậy, nên chăng trong nhóm người nghèo còn phải phân ra nhóm thường xuyên bị đói kém và nhóm thiếu ăn trong một số tháng mới đúng.

Với tình hình thiên tai xảy ra triền miên, nhóm cận nghèo sẽ rất dễ dàng chuyển sang nhóm nghèo. Thực tế nhóm nghèo ở nông thôn Việt Nam không phải chỉ chiếm 12% như nhiều tài liệu đã công bố, mà còn có thể cao hơn nhiều. Ngược lại có vùng, một số gia đình thân thuộc của lãnh đạo cấp địa phương thuộc loại cận nghèo hay trung bình nhưng khi có chế độ cấp phát nào đó thì được chuyển sang nhóm hộ nghèo (điển hình là trường hợp Nhà nước hỗ trợ tiền cho người nghèo ăn Tết Kỷ Sửu 2009) để được hưởng các trợ cấp của Nhà nước. Tạm thời cứ cho là các nhóm giàu - nghèo được phân cấp như vậy là hợp lý, thì chính sách kèm theo cũng phải được áp dụng phù hợp theo từng nhóm, hợp lý cả việc đóng góp nghĩa vụ với xã hội, chính sách đào tạo, dạy nghề, số lượng tiền và thủ tục vay vốn.

Chính sách vẫn còn đi sau thực tiễn

Kể từ khi có Nghị quyết 10, ngày 5-4-1988, của Bộ Chính trị khóa VI (tháng 4-1988) và Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, đã xóa bỏ được nạn ngăn sông cấm chợ và công nhận hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, nông dân được phép buôn bán sản phẩm của mình trên thị trường tự do thì kinh tế nông nghiệp đã phát triển rất nhanh. Nước ta từ chỗ thiếu ăn triền miên, chỉ sau vài năm "cởi trói", mở cửa đã có thừa gạo xuất khẩu, đứng thứ ba rồi thứ nhì trên thế giới. Vai trò của chính sách quan trọng như vậy, nhưng vẫn còn những chính sách đi sau thực tiễn khá xa, thậm chí có lúc trở thành bất hợp lý, gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống của người lao động.

Điển hình như ở đồng bằng sông Cửu Long, hằng năm có sản lượng lúa của 3 vụ trung bình đạt 19 triệu tấn thóc, năm mất mùa cũng được 18,5 triệu tấn. Nếu trừ thóc làm giống bình quân 200 kg/héc ta (kể cả phần dự phòng cao lắm cũng chỉ đến 250kg/héc ta) để dùng gieo trồng lúa cho 3,8 triệu héc ta sẽ cần 950.000 tấn/năm; thóc dự trữ chỉ cần 500 ngàn đến 1 triệu tấn là đủ; thóc chăn nuôi khoảng 1 triệu tấn; thóc dùng để ăn cho 18 triệu dân của vùng khoảng 2,8 triệu tấn. Tổng cộng các khoản chỉ tốn chừng 4,5 đến 5 triệu tấn thóc, sẽ còn thừa đến 14 triệu tấn thóc. Nếu để cung cấp cho các vùng trong đất nước khoảng 2 triệu tấn thì vẫn còn khoảng 12 triệu tấn thóc dùng để xuất khẩu. Nếu quy đổi ra gạo nguyên, có khoảng 6 triệu tấn (nếu lấy gạo 15% tấm thì còn cao hơn nhiều).

Với bài toán như vậy, chỉ cần xuất khẩu số gạo dôi ra của đồng bằng sông Cửu Long mà không cần số gạo của các vùng khác, đất nước ta cũng đã thừa tiêu chuẩn gạo xuất khẩu theo kế hoạch. Thế nhưng, trong năm 2008 và 2009, khi giá gạo thế giới đang "ngon trớn" thì có lệnh ngưng xuất khẩu, đến khi gạo thế giới hạ nhiệt thì tìm cách thu mua lúa cho dân, để dân phải chịu thiệt. Thực trạng đó cần đặt câu hỏi là Ban Điều hành ngành gạo xuất khẩu không hiểu được thực tế lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long hay có ý muốn độc quyền ngành xuất khẩu gạo? Phải nói rằng chưa nơi nào có ưu thế về sản xuất lúa gạo như ở đồng bằng sông Cửu Long, lúc nào trên đồng cũng có lúa để thu hoạch. Do đó, việc dự trữ lúa chủ yếu là để cho vùng khác. Hơn nữa, hằng năm, ta có thuận lợi buôn bán lúa gạo với nước bạn Căm-pu-chia khoảng nửa triệu tấn thóc, việc buôn bán này giống như luân chuyển lúa gạo ở nội hạt, nên không sợ thiếu gạo.

Nông dân đang cần gì?

Nông dân nói chung và nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng đang cần gì? Câu trả lời là nông dân tất nhiên phải cần đất, cần chính sách hợp lý để tích tụ ruộng đất đủ, có thể sử dụng công cụ cơ giới hóa mới có cơ hội thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Nông dân còn cần có kiến thức, có trình độ, có tay nghề phù hợp cho các nhóm hộ để làm kế sinh nhai. Khi có nghề thì một bộ phận nông dân sẽ sẵn sàng nhượng đất cho người khác mà vẫn có thể sống đầy đủ.

Nông dân cần vốn để phát triển sản xuất.

Và suy cho cùng, nông dân cần một hệ thống chính sách phù hợp cho từng nhóm hộ, chính sách phải kịp thời, luôn luôn được tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để kịp thời chỉnh sửa những phần chưa hợp lý, làm cho chính sách thực sự sống động, là chỗ dựa của mọi người để phát triển sản xuất. Muốn làm giàu cần có chính sách tác động vào nhóm giàu và muốn xóa đói, giảm nghèo cần có chính sách vào nhóm hộ nghèo, cận nghèo. Cần làm cho người nghèo vẫn có chỗ đứng ở vùng nông thôn một cách vững chắc để họ có thể " ly nông nhưng bất ly hương".