Đồng chí Võ Văn Kiệt với tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh
Nhớ về đồng chí Võ Văn Kiệt, chúng ta nhớ tới một trong những “người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã “luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, bám sát thực tiễn, bằng tư duy sắc sảo, nhạy bén, sáng tạo, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”, đã “có nhiều đóng góp lớn cùng toàn Đảng, toàn dân vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, đưa sự nghiệp cách mạng luôn tiến lên phía trước”(1).
Nói về đồng chí Võ Văn Kiệt là nói về một nhà lãnh đạo cộng sản kiên trung trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc chống ngoại xâm ở thế kỷ XX đã “luôn nêu cao tấm gương sáng về tinh thần chủ động cách mạng tiến công, kiên cường bám dân, bám đất ở những địa bàn xung yếu, ác liệt nhất, gây dựng và phát triển phong trào cách mạng”; là một trong những nhà lãnh đạo có “tầm tư duy chiến lược, với quyết tâm đổi mới, tác phong sâu sát, quyết đoán, luôn tìm tòi, trăn trở”, “đã đóng góp xứng đáng vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo”.
Võ Văn Kiệt viết không nhiều về con người, sự nghiệp và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng, mỗi bài, mỗi câu viết và mọi hoạt động thực tiễn cách mạng của đồng chí đều chứa đựng sự am tường sâu sắc về tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh - đó là “một đạo lý lớn của dân tộc” và khẳng định: “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả rực rỡ của tư tưởng đó”. Đồng chí đã phân tích và chỉ rõ, nhờ tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, “không chỉ có sĩ, nông, công, thương, binh, mà cả vua quan triều Nguyễn cũng ngả theo cách mạng. Nhờ đó, kẻ xâm lược mất đi chỗ dựa ban đầu. Kẻ thù trong nước bị tê liệt. Còn những người có tâm huyết với nước, với dân thì được thu phục và tận tụy đến cùng với cách mạng và kháng chiến”(2).
Là người trực tiếp lăn lộn với miền Nam trong cả hai cuộc kháng chiến ở thế kỷ XX, “sống trong lòng dân thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội”, đồng chí Võ Văn Kiệt thấy “bài học về sức mạnh dân tộc càng thấm sâu vào trong máu thịt” của mình. Và từ thực tiễn đó, đồng chí nhận thấy rõ tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh “lại một lần nữa bừng lên mạnh như một sức mạnh vĩ đại của cả dân tộc” trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Dưới ánh sáng của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh - như đồng chí viết - sức mạnh đoàn kết của mọi thành phần khác nhau trong xã hội miền Nam lúc đó “đã làm cho chính quyền tay sai đã bị cô lập lại càng bị cô lập hơn, đã suy yếu càng suy yếu hơn. Lực lượng cách mạng đã lớn mạnh càng lớn mạnh hơn”(3).
Võ Văn Kiệt cũng nhìn rõ tinh thần đoàn kết quốc tế, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh “đã làm cho kẻ thù xâm lược Việt Nam càng ngày càng bị cô lập. Trong các nước xã hội chủ nghĩa, tư tưởng đoàn kết quốc tế của Bác Hồ đã làm cho những người bạn lớn của chúng ta dù còn mếch lòng với nhau nhưng vẫn luôn luôn nhất trí ủng hộ sự nghiệp kháng chiến của chúng ta”(4).
Sự am tường về tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã làm Võ Văn Kiệt trăn trở khi thấy tư tưởng vĩ đại, đạo lý lớn của dân tộc có lúc đã bị coi nhẹ, sao nhãng, nhất là sau thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp và đế quốc Mỹ.
Là con người hành động, sự thấu hiểu sâu sắc của Võ Văn Kiệt về tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh lại thể hiện ở trong quá trình vận dụng vào thực tiễn trên cương vị đầy trách nhiệm của mình. Võ Văn Kiệt cho rằng, từ ngày Đảng có chủ trương đổi mới thì tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh càng được thể hiện đúng đắn. Điều này thể hiện ở chỗ “tư tưởng hòa hợp dân tộc lại được phục hưng và ứng nghiệm với nhiều kết quả khả quan mà biểu hiện của nó là kinh tế nhiều thành phần, quan điểm kinh tế mở, tư tưởng Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, khép lại quá khứ, hướng về tương lai... đã giúp cho nước ta khai thác được cả nội lực và ngoại lực để vượt qua khủng hoảng, liên tiếp thu được những thành quả về mọi mặt”(5).
Đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh “có nghĩa là phải khoan dung”, là “chủ trương xóa bỏ mọi hận thù chia rẽ do chế độ cũ để lại, sẵn sàng thu dụng những người có tài, có năng lực và tâm huyết, mà không kể đến quá khứ”(6). Võ Văn Kiệt đã nêu lên câu hỏi để tất cả mọi người dân Việt Nam cùng suy nghĩ: “Nếu cứ còn chia rẽ vì bại, kiêu vì thắng, thì ích lợi gì cho bản thân, cho đất nước, cho hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế?”(7).
Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi ấy nhưng Võ Văn Kiệt đã chỉ ra rằng: “tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng có thể được quy tụ. Con người không quy tụ được thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng”(8). Đó cũng là câu trả lời, vì trên thực tế, Võ Văn Kiệt đã làm tất cả những việc có thể để quy tụ lòng người Việt Nam theo đúng tinh thần hòa hợp dân tộc, đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để quy tụ toàn dân, Võ Văn Kiệt cho rằng, phải luôn nuôi dưỡng ngọn lửa yêu nước và đại đoàn kết dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công vun đắp. Theo đồng chí, để ngọn lửa yêu nước, đại đoàn kết dân tộc sáng mãi, phải luôn nhớ mấy bài học lớn của Bác Hồ. Đó là:
“- Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam cùng mọi thành quả của nền văn hóa Việt Nam không phải là của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của cả mọi người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
- Đã thế thì mọi người Việt Nam đều phải có trách nhiệm và có quyền được đóng góp vào việc tô điểm cho giang sơn đó, làm giàu và làm đẹp thêm cho nền văn hóa đó.
- Lại vì thế nên phải làm sao để cho mọi người Việt Nam đều được sống với giang sơn gấm vóc này, được hưởng mọi giá trị và tinh thần của nền văn hóa này”(9).
Chỉ có nhận thức như vậy và hành động với tinh thần đó, thì tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh mới được thực hiện và “sẽ mãi là sức mạnh giúp chúng ta vượt qua bao thử thách”, “sẽ đem lại cả sức sống, niềm tin, niềm vui, nghĩa tình và hạnh phúc cho hàng triệu và hàng triệu con người Việt Nam chúng ta”(10).
Đoàn kết toàn dân tộc, thu phục nhân tâm, nhân tài phụ thuộc vào khả năng của lãnh đạo và vai trò ấy thuộc về Đảng ta. Bởi “Đảng là người đang nắm quyền lãnh đạo đất nước có đủ thẩm quyền trước lịch sử để làm điều này. Đảng cần thể hiện trách nhiệm của mình trước lịch sử, nắm lấy cơ hội để gắn kết dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân và sức mạnh thời đại vào thời điểm có một không hai này”(11); “Trong lịch sử của mình, hễ khi nào Đảng ta tập hợp được sự đoàn kết của toàn dân, khi đó, Đảng giành được thắng lợi”(12).
Võ Văn Kiệt khẳng định rằng, để đoàn kết toàn dân, được sự ủng hộ của cả dân tộc và ở trong “vai trò một Đảng thực sự của dân tộc”, Đảng phải “thể hiện vai trò tiên phong của chính mình vì lợi ích tối cao của dân tộc”. Là người nói ít, làm nhiều theo tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, trên trọng trách của mình, Võ Văn Kiệt đã không ngừng vun đắp cho khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng vững chắc hơn, mở rộng hơn, tạo ra nội lực vững chắc đưa đất nước ta vào thời kỳ hội nhập quốc tế.
Không chỉ thấu hiểu sâu sắc tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh mà Võ Văn Kiệt còn vận dụng tư tưởng đó một cách chính xác và thành công vào thực tiễn, đồng thời đã góp phần phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh nói riêng và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung trong điều kiện lịch sử mới. Chính những điều đó đã tạo nên hình ảnh Võ Văn Kiệt - như Đảng ta đã khẳng định - là “một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng, ở mỗi giai đoạn khó khăn, thử thách”, đã “luôn nêu cao tính tiên phong và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng, thương yêu đồng bào, thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc”(13)./.
---------------------------------------------
(1) Những đoạn in nghiêng trong ngoặc của trang 1 và trang 2 này đều trích từ Điếu văn tại lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt.
(2) Thủ tướng Võ Văn Kiệt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, người sống mãi trong lòng nhân dân, Nxb Văn hóa - Thông tin, H, 2012, tr. 53
(3) Sđd, tr. 55
(4) Sđd, tr.56
(5) Sđd, tr.57
(6) Sđd, tr.54
(7) Sđd, tr.57
(8) Sđd, tr.58
(9) Sđd, tr.58
(10) Sđd, tr.59
(11) Sđd, tr.89
(12) Sđd, tr.69
(13) Điếu văn tại lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt
Tầm cao mới của quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Liên bang Nga  (22/11/2012)
Các hoạt động thiết thực kỷ niệm 90 năm ngày sinh cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt  (21/11/2012)
Phê duyệt nhiệm vụ điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050  (21/11/2012)
Bỏ phiếu tín nhiệm Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ từ năm 2013  (21/11/2012)
Khai mạc "Chương trình Khám phá văn minh sông Hồng"  (21/11/2012)
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
- Một số nội dung chủ yếu trong đường lối, chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa liên quan đến chuyển đổi công nghiệp
- Mối quan hệ giữa già hóa dân số và tăng trưởng kinh tế: Kinh nghiệm của Nhật Bản và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên