TCCSĐT - Thành phố Cần Thơ đang tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn theo hướng chuyển dần sang hình thức nông nghiệp chất lượng cao gắn sản xuất với phát triển của ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển nông nghiệp bền vững.

Những kết quả đạt được trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp thành phố Cần Thơ

Sau hơn 3 năm Cần Thơ triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu (chuyển dịch cơ cấu) nông nghiệp thành phố Cần Thơ theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững đến năm 2020 theo Quyết định số 889/QĐ-TTg, ngày 10-6-2013, của Thủ tướng Chính phủ, bước đầu đã đạt được những kết quả như sau:

Trước hết, thành phố Cần Thơ đã chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp gắn với thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới để bảo đảm phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững và theo hướng sản xuất hàng hóa. Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện, thành phố Cần Thơ có 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới (Mỹ Khánh, Trung An, Thạnh Thắng, Trường Xuân, Giai Xuân, Vĩnh Trinh, Thạnh Lợi, Đông Bình, Tân Thới, Trường Long, Nhơn Ái, Trung Thạnh) chiếm 33,33% tổng số xã; các xã đạt từ 15 đến 19 tiêu chí có 20 xã; xã đạt từ 10 đến 14 tiêu chí 4 xã, không có xã đạt dưới 12 tiêu chí, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra(1). Năm qua, Cần Thơ đã huy động gần 1.500 tỷ đồng xây dựng nông thôn mới, trong đó tín dụng trên 650 tỷ đồng, doanh nghiệp gần 40 tỷ đồng, riêng người dân đóng góp trên 100 tỷ đồng.

Hai là, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp. Vùng tập trung cây ăn trái đặc sản gắn với du lịch sinh thái (huyện Phong Điền), vùng sản xuất rau an toàn, vùng nuôi cá tra theo theo tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt, phát triển chăn nuôi an toàn sinh học (huyện Phong Điền, Ô Môn, Thốt Nốt) ,… Thành phố Cần Thơ đang hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung đã tạo điều kiện phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ ở nông thôn, thu hút các thành phần kinh tế đầu tư nhiều cơ sở tiểu thủ công nghiệp với nhiều ngành, nghề.

Ba là, xây dựng các chuỗi nông sản chủ lực của Thành phố. Đã hình thành và bước đầu nhân rộng mô hình chuỗi nuôi, chế biến và xuất khẩu cá tra; Chuỗi sản xuất lúa giống, sản xuất lúa thịt và chế biến, tiêu thụ - xuất khẩu gạo ở vùng Ô Môn, Thốt Nốt.

Bốn là, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng, tích cực. Giảm giá trị ngành trồng trọt, tăng giá trị ngành chăn nuôi và thủy sản. Cần Thơ đưa gần 100.000 ha đất nông nghiệp sản xuất cây con gắn với các cơ sở chế biến và thị trường tiêu thụ, trong đó đưa 20.000 ha ứng dụng kỹ thuật cao, chuyển 25.000 ha đất trồng lúa hiệu quả chưa cao sang nuôi trồng thủy sản và cây con khác (2). Trong năm 2015, thành phố Cần Thơ đã tiến hành chuyển đổi được khoảng 12.000 ha từ đất trồng lúa sang nuôi cá trên ruộng và các loại cây trồng khác, nâng giá trị sản xuất 1 ha đạt bình quân 153 triệu đồng/năm, khá cao so với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long(2). Đồng thời, phát triển làng nghề truyền thống trong nông thôn để cải thiện đời sống và tận dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, sử dụng lao động lúc nông nhàn.

Năm là, hoạt động ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và bảo quản, chế biến nông sản cơ bản được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm đã góp phần nâng cao thu nhập và ổn định đời sống người nông dân. Phát triển công nghệ sinh học và cung cấp dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao. Cần Thơ từng bước hình thành nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trọng tâm là các khu nông nghiệp công nghệ cao với các sản phẩm là giống và sản phẩm chất lượng cao với các loại chủ lực là lúa, rau màu, trái cây, chăn nuôi, thủy sản nước ngọt cùng các dịch vụ khoa học kỹ thuật với công nghệ đạt tiêu chuẩn trong nước và quốc tế; đồng thời cung cấp dịch vụ khoa học kỹ thuật và công nghệ cao cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được, cần tiếp tục phát huy, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp Cần Thơ vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó có một số hạn chế cần khắc phục như sau:

- Phát triển nông nghiệp gắn với phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn được thực hiện, nhưng chưa nhiều; chất lượng nông sản hàng hóa, năng lực cạnh tranh sản phẩm chưa cao, nên hiệu quả mang lại từ kinh tế nông nghiệp chưa đạt theo yêu cầu.

- Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn có quan tâm, nhưng chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu của thành phố; thu hút đầu tư từ doanh nghiệp cho nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế.

- Thu nhập của nông dân chưa bền vững, nhiều rủi ro như thiên tai, dịch bệnh, giá cả đầu vào và đầu ra của hàng hóa nông sản chưa ổn định.

- Công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp chưa nhiều; chất lượng hoạt động của kinh tế tập thể còn hạn chế, các mô hình kinh tế hợp tác xã kiểu mới phát triển chưa đủ mạnh.

- Một số cơ chế, chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn chậm đi vào cuộc sống, nguồn lực để triển khai thực hiện các chương trình và đề án còn hạn chế; vì vậy, chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra.

Những hạn chế trên do các nguyên nhân chính sau: (1) Biến động tình hình kinh tế chung ở tầm vĩ mô và vi mô tác động trực tiếp đến giá cả đầu vào (giống, phân bón, thức ăn…) của sản xuất nông nghiệp và sự không ổn định của giá cả đầu ra nông sản phẩm. (2) Bình quân diện tích đất sản xuất trên nông hộ với quy mô nhỏ, phân tán, và năng lực quản lý, trình độ sản xuất chưa cao nên việc tổ chức sản xuất theo hướng tập trung hàng hóa lớn, tăng thu nhập đủ để cải thiện thực sự đời sống của nông dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn. (3) Tiến trình đô thị hóa, công nghiệp hóa của thành phố được đẩy mạnh, tập trung nguồn lực đầu tư cho khu vực công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ nên đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu. (4) Tình hình thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, tình hình dịch bệnh phát sinh trên cây trồng, vật nuôi ngày càng nhiều, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng nông sản.

Một số bài học kinh nghiệm

Sau hơn 3 năm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp, Cần Thơ rút ra được các bài học kinh nghiệm sau: (i) Cần phải có sự thống nhất về ý chí và hành động của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương; dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự chỉ đạo sâu sát của Nhà nước, sự vào cuộc của các tổ chức trong hệ thống chính trị là yếu tố quan trọng để tạo sự chuyển biến tích cực để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. (ii) Quan tâm huy động và sử dụng tốt các nguồn lực để phát triển nông nghiệp, nông thôn. Trong đó, sự hỗ trợ của Nhà nước về các mặt là rất cần thiết như đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến ngư; chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhất là về giống mới, kỹ thuật canh tác, cơ giới hóa, thủy lợi hóa, điện khí hóa… nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị và hiệu quả sản xuất. (iii) Triển khai thực hiện hiệu quả liên kết “4 nhà” để xây dựng chuỗi giá trị sản xuất hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân đẩy mạnh sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và nâng cao thu nhập. (iv) Kết hợp giữa phát triển sản xuất với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường nông thôn. Trong quá trình phát triển sản xuất phải quan tâm hài hòa các lợi ích giữa nhà nước - doanh nghiệp - nông dân, giải quyết tốt an sinh xã hội nông thôn, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, trước hết quan tâm giải quyết việc làm, đầu tư thỏa đáng cho giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe nhân dân, đồng thời phải coi trọng việc bảo vệ môi trường.

Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố Cần Thơ theo hướng giá trị gia tăng và phát triển bền vững

Để chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển sản xuất nông, lâm, thủy sản theo hướng chất lượng cao và bền vững, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hóa, thành phố Cần Thơ cần có những giải pháp phù hợp, kịp thời:

Thứ nhất, giải pháp về tổ chức sản xuất. Mở rộng liên kết với các địa phương trong vùng và liên kết 4 nhà: Tăng cường liên kết với các viện, trường trong vùng (Viện lúa đồng bằng song Cửu Long, Viện cây ăn quả, Trường đại học Cần Thơ). Thực hiện liên kết giữa Doanh nghiệp - Tổ chức tín dụng - Nông dân trong việc vay vốn sản xuất để giảm bớt các thủ tục vay vốn hiện còn đang bất cập hoặc liên kết giữa Doanh nghiệp - Nhà khoa học - Nông dân trong việc hỗ trợ đào tạo và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về giống cây con, quy trình sản xuất và chế biến. Đẩy mạnh phát triển các mối liên kết trực tiếp trong chuỗi sản xuất giữa nông dân và nông dân, giữa nông dân sản xuất và các dịch vụ, giữa doanh nghiệp và nhóm nông dân. Khuyến khích các doanh nghiệp đa dạng hóa các hình thức ký kết hợp đồng theo hướng gia tăng cộng đồng trách nhiệm và gắn kết lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với nông dân, trước mắt mở rộng hình thức ứng trước vốn, giống, vật tư, phân bón, hỗ trợ kỹ thuật và mua lại nông sản theo giá cả thống nhất ghi trong hợp đồng hoặc bán vật tư trả chậm và mua lại nông sản theo giá thỏa thuận; tiến tới các hình thức liên kết cao hơn như: nông dân góp vốn bằng đất hoặc cho doanh nghiệp thuê đất rồi sản xuất theo yêu cầu của doanh nghiệp.

Đồng thời, nâng cao nhận thức, vai trò và trách nhiệm của hộ nông dân trong việc thực thi hợp đồng kinh tế; củng cố và phát triển mạnh kinh tế tập để có thể đại diện hộ xã viên đứng ra ký kết hợp đồng, vừa tạo thuận lợi trong việc hình thành các vùng sản xuất tập trung, vừa giảm đầu mối ký kết hợp đồng cho các doanh nghiệp và tăng vai trò tự quản trong việc thực hiện hợp đồng.

Song song đó, Cần Thơ cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể. Nâng cao nhận thức về lợi ích và vai trò của kinh tế tập thể trước yêu cầu phát triển của nền nông nghiệp hàng hóa, đặc biệt là trước sức ép cạnh tranh về quy mô, số lượng, chất lượng và giá cả nông sản hàng hóa trên thị trường trong nước và xuất khẩu ngày một tăng.

Mặt khác, cần khuyến khích phát triển trang trại và doanh nghiệp nông nghiệp: Phối hợp với các cơ quan hữu quan đề xuất, triển khai thực hiện chính sách ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế đối với các trang trại, doanh nghiệp.

Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và xây dựng mô hình cánh đồng lớn. Trên cơ sở đó, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của người dân vùng nông thôn; Đồng thời cung cấp hàng hóa nông sản cho thị trường trong và ngoài nước.

Cần chú trọng công tác tổng kết, đánh giá, hoàn thiện cơ chế, chính sách và nhân rộng mô hình cánh đồng lớn theo vùng sản xuất lúa theo hướng VietGAP, mô hình cánh đồng lúa chất lượng cao. Nghiên cứu, tổng kết, đánh giá về hiệu quả của các mô hình chăn nuôi gia công mà các công ty trong và ngoài nước.

Thứ ba, đầu tư đồng bộ hạ tầng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung: Hoàn thiện quy hoạch và các dự án đầu tư các vùng sản xuất cây con tập trung như: vùng sản xuất lúa giống, vùng sản xuất lúa chất lượng cao và lúa đặc sản, vùng chuyên canh cây ăn quả, vùng sản xuất rau hoa, cây cảnh, vùng phát triển chăn nuôi tập trung.

Thứ tư, giải pháp về tiêu thụ sản phẩm. Củng cố, sắp xếp lại hệ thống thu mua, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm và thủy sản; tạo sự cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào một phần hay toàn bộ các khâu tiêu thụ một sản phẩm. Xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn chất lượng đối với từng mặt hàng xuất khẩu cũng như các tiêu chuẩn, quy trình kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩn đối với các cơ sở chế biến và xuất khẩu nông thủy sản. Tăng năng lực chế biến và xuất khẩu các sản phẩm chủ lực của các doanh nghiệp nhằm tạo liên kết bền vững giữa người sản xuất với người chế biến. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại ở các thị trường truyền thống, tổ chức các sự kiện quảng bá và giới thiệu sản phẩm tới các thị trường mới.

Thứ năm, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng vùng sản xuất và tổ chức quảng bá rộng rãi các sản phẩm chủ lực của thành phố. Tăng cường phối hợp giữa các ngành, các địa phương trong việc xây dựng thương hiệu, tổ chức hệ thống thu mua và tiêu thụ nông sản. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc quảng bá hàng hóa, trước hết là phát triển hệ thống thông tin thị trường, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về quản lý chất lượng nông sản hàng hóa theo yêu cầu của thị trường. Củng cố và tăng cường năng lực hoạt động của các trung tâm xúc tiến thương mại, chú trọng mở rộng thị trường xuất khẩu đi đôi với khai thác có hiệu quả thị trường nội địa.

Thứ sáu, giải pháp huy động vốn. Tăng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn: Đầu tư phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là thủy lợi, kết hợp với giao thông, điện và bố trí ổn định đời sống dân cư vùng có nguy cơ cao về thiên tai. Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đầu tư công, sử dụng các nguồn vốn đầu tư tập trung, đúng quy hoạch, kế hoạch, chống thất thoát, lãng phí đi đôi với tăng cường kiểm tra và giám sát. Đầu tư hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu, khuyến nông, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, mua sắm máy móc phục vụ cơ giới hoá, trong đó ưu tiên cho lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, sản xuất và cung ứng giống, công nghệ sau thu hoạch, bảo quản và chế biến nông sản xuất khẩu. Mở rộng nguồn vốn đầu tư tín dụng: Đa dạng hóa các hình thức cho vay, trong đó chú trọng mở rộng các hình thức cho vay không phải thế chấp và cho vay bảo hiểm, tăng vốn vay trung hạn và dài hạn với lãi suất và thời gian phù hợp với chu kỳ sản xuất của từng loại cây trồng, vật nuôi. Thực hiện chính sách cho vay theo nhóm đối tượng ngành nghề, trong đó ưu tiên cho các nhóm ngành, nghề thuộc các dự án xây dựng vùng sản xuất tập trung, vùng ứng dụng công nghệ cao, vùng phát triển nông nghiệp đô thị như nuôi cá tra, sản xuất lúa giống, sản xuất lúa chất lượng cao, sản xuất rau - hoa - cây cảnh.

Thứ bảy, đẩy mạnh cải cách hành chính và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn: Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, tạo thuận lợi trong xử lý các thủ tục hành chính cho người dân. Đồng thời, xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho ngành nông nghiệp, trong đó xác định số lượng lao động, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ lao động cần đào tạo. Mở các lớp tập huấn khuyến nông cho nông dân, nhất là về kỹ thuật sản xuất, chế biến và bảo quản sản phẩm. Chú trọng đào tạo đội ngũ quản lý sản xuất kinh doanh nông nghiệp, trước hết là cán bộ hợp tác xã, chủ trang trại, chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cho phát triển đào tạo và dạy nghề cho nông dân.

Thứ tám, giải pháp về khoa học, công nghệ và khuyến nông và cơ giới hóa trong nông nghiệp phục vụ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa và xuất khẩu.

----------------------------------------

(1) http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-khuyen-nong/tai-co-cau-nong-nghiep-tai-can-tho-63069.html

(2) Bài "Cần Thơ: Xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp an toàn"
http://xttm.agroviet.gov.vn/Site/vi-vn/64/109/97691/Default.aspx