Xây dựng Quảng Ninh thành tỉnh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh, cực tăng trưởng khu vực phía Bắc

TS Đặng Minh Phụng
Học viện Chính trị Khu vực I
05:57, ngày 30-09-2023

Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc được Đại hội XIII của Đảng đặt ra trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen. Để đạt được mục tiêu đó, đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu rất lớn của cả dân tộc. Với khát vọng vươn lên tầm cao mới, góp phần xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV (tháng 9-2020) đã đề ra: Đến năm 2030, xây dựng, phát triển Quảng Ninh là tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại; là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện, trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước. Đến năm 2045, Quảng Ninh là tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, vùng đô thị lớn mang tầm khu vực và quốc tế; một trong những đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia với động lực tăng trưởng chính là dịch vụ, du lịch, đổi mới sáng tạo, có cơ sở kinh tế vững chắc, có sức cạnh tranh cao; người dân có mức thu nhập tương đương các nước phát triển; phát triển kinh tế hài hòa giữa các khu vực đô thị và nông thôn; đảm bảo vững chắc quốc phòng - an ninh. Mục tiêu trên một lần nữa tiếp tục được nhấn mạnh trong Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 80/QĐ-TTg, ngày 11-2-2023, khẳng định đưa Quảng Ninh trở thành tỉnh tiêu biểu của cả nước về mọi mặt; tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc; một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện; trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; đô thị phát triển bền vững theo mô hình tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; là khu vực phòng thủ tỉnh vững chắc về quốc phòng - an ninh và phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế.

1. Những thành tựu của tỉnh Quảng Ninh trong quá trình xây dựng trở thành tỉnh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh, cực tăng trưởng phía Bắc

Với sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị, sự nỗ lực vượt bậc của các cấp, ngành, sự đoàn kết đồng lòng của nhân dân, thời gian qua tỉnh Quảng Ninh đã đạt được những kết quả quan trọng:

Thứ nhất, kinh tế liên tục tăng trưởng cao và ổn định: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh luôn duy trì ở mức cao hơn so với bình quân của vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2005 - 2020 đạt 10,12%/năm. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19, song tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Quảng Ninh vẫn duy trì ở mức 2 con số, năm 2020, tốc độ tăng trưởng đạt 10,05%, đứng thứ 2 vùng Đồng bằng sông Hồng, năm 2021 đạt 10,28% (đứng thứ 2 cả nước, sau Hải Phòng). Quy mô của nền kinh tế tăng nhanh, đến năm 2021 GRDP đạt 238.186 tỷ đồng, gấp 19 lần so với năm 2005 (12.633 tỷ đồng), đứng thứ 3 vùng đồng bằng sông Hồng (sau Hà Nội, Hải Phòng) và đóng góp 9,3% vào tổng quy mô nền kinh tế của Vùng.

Thứ hai, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị, dịch vụ, du lịch, văn hóa, thể thao, y tế, giáo dục,... có bước phát triển đột phá theo hướng đồng bộ, hiện đại. Quảng Ninh đi đầu trong việc thực hiện thành công phương thức huy động nguồn lực đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP), với phương châm “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”. Từ đó đã huy động được nguồn lực lớn từ các thành phần kinh tế, trở thành giải pháp đột phá để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại. Quảng Ninh là địa phương duy nhất trong cả nước huy động tư nhân đầu tư xây dựng cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, cảng tàu khách quốc tế Hòn Gai, đường cao tốc thúc đẩy liên kết vùng và hợp tác quốc tế. Tỉnh đã hoàn thiện hệ thống đường cao tốc chạy dọc tỉnh dài 176km (chiếm 16,83% tổng chiều dài đường cao tốc của cả nước), kết nối với 2 loại hình giao thông quan trọng là cảng tàu khách quốc tế Hạ Long và cảng hàng không quốc tế Vân Đồn. Trục cao tốc của Quảng Ninh đã kết nối 3 cửa khẩu quốc tế quan trọng nhất khu vực phía Bắc là Lào Cai, Hữu Nghị (Lạng Sơn) và Móng Cái (Quảng Ninh), với tuyến đường cao tốc kết nối liên vùng dài nhất Việt Nam (tổng cộng 571,5km) gồm: Hà Nội - Lào Cai; Hà Nội - Hải Phòng; Hải Phòng - Hạ Long; Hạ Long - Móng Cái. Tuyến đường đã đưa Quảng Ninh ngày càng trở thành điểm trung chuyển chiến lược trong khu vực Đông Á - Đông Nam Á, ASEAN - Trung Quốc, Khu vực hợp tác “hai hành lang một vành đai kinh tế” Việt - Trung, hợp tác liên vùng Vịnh Bắc Bộ mở rộng, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy liên kết vùng của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Vùng đồng bằng sông Hồng. Ngoài ra, Quảng Ninh cũng đang phát triển các tổ hợp cảng biển - khu công nghiệp với 2 dự án quan trọng là Khu công nghiệp Bắc Tiền Phong và Khu công nghiệp Nam Tiền Phong (DEEP C Quảng Ninh) tại Khu kinh tế ven biển Quảng Yên. Các cảng biển xây dựng trong DEEP C Quảng Ninh sẽ kết nối trực tiếp với cảng biển nước sâu Lạch Huyện tại Hải Phòng, thông qua sông Chanh với dự án nạo vét sông Chanh.

Thứ ba, công tác bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân và văn hóa thông tin được cải thiện. Các cấp, các ngành của tỉnh Quảng Ninh đã chú trọng thực hiện đầy đủ chính sách an sinh xã hội, các chế độ chính sách đối với gia đình người có công, hộ nghèo, đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đặc biệt trong đại dịch COVID-19, Tỉnh đã hỗ trợ 88.950 trường hợp gặp khó khăn với tổng số tiền 102,7 tỷ đồng; hỗ trợ sửa chữa, xây mới nhà ở cho người có công giai đoạn 3 là 2.558 hộ, đạt 96%; tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm từ 0,52% năm 2019 xuống còn 0,36% năm 2020. Chất lượng giáo dục chuyển biến tích cực; cơ sở vật chất cho giáo dục, đào tạo được tăng cường; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giảng dạy và học tập; tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt 86,82% (547/630 trường); tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 90,5%.  Bên cạnh việc tự đào tạo, Quảng Ninh đẩy mạnh liên kết vùng và hợp tác trong nước và quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, tỉnh đã ký kết thỏa thuận hợp tác đào tạo với các trường Đại học hàng đầu Việt Nam và quốc tế: như Đại học Kinh tế Quốc dân; Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Ngoại thương; Trường Đại học Công nghệ Auckland New Zealand, nhằm liên kết đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh, tăng cường đào tạo đối với các ngành, lĩnh vực quản trị kinh doanh, tài chính, ngân hàng, kinh tế, luật kinh doanh, thương mại quốc tế, du lịch, chuyên gia về quản lý các khu kinh tế, khu công nghiệp, đào tạo trình độ sau đại học cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh, đào tạo giáo viên của Trường Đại học Hạ Long, đồng thời thu hút nhân tài cho chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh đề ra. Hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em được chú trọng, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 95%; số bác sỹ trên 1 vạn dân đạt 14,8 bác sỹ; số giường bệnh trên vạn dân đạt 54,6 giường bệnh; tiêu chí quốc gia về y tế xã đạt 100%. Các hoạt động văn hóa, thông tin, báo chí, phát thanh truyền hình không ngừng đổi mới, kịp thời tuyên truyền đúng trọng tâm các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của Tỉnh, trọng tâm là phát triển kinh tế, xã hội.

2. Một số giải pháp để tiếp tục xây dựng Quảng Ninh trở thành Tỉnh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh, cực tăng trưởng phía Bắc

Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, truyền thống văn hóa lịch sử cách mạng, những tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội và lợi thế cạnh tranh cùng với đó là khát vọng thịnh vượng và những nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc tạo lập trong thời gian qua là những yếu tố góp phần quan trọng để Quảng Ninh đạt được khát vọng đề ra, trước hết là hiện thực hóa mục tiêu tiếp tục xây dựng Quảng Ninh thành tỉnh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh, tiếp tục vươn lên, giữ vững vị trí là một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc. Bên cạnh những thế mạnh, để đạt được mục tiêu, trong thời gian tới đòi hỏi tỉnh Quảng Ninh luôn phải nỗ lực, đổi mới, sáng tạo, năng động, tự lực, tự cường, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị và sự đồng lòng của nhân dân để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, cần những giải pháp sau:

Một là, tiếp tục coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Xây dựng, củng cố, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất, trước hết từ các cơ quan lãnh đạo. Xây dựng chính quyền địa phương các cấp liêm chính, phục vụ, thực sự “của dân, do dân, vì dân”, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Khảo sát gần đây cho thấy, niềm tin của nhân dân Quảng Ninh đối với Đảng, với hệ thống chính trị tăng từ 73,3% năm 2016 lên 96,1% năm 2019. Đó là minh chứng cho thấy niềm tin, sự kỳ vọng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, của hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng từ tỉnh đến cơ sở; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với chế độ và với Đảng; phát huy dân chủ, kỷ cương và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, truyền thống cách mạng, văn hóa, sự năng động và khát vọng đổi mới, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường là những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc xây dựng Quảng Ninh thành tỉnh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh, cực tăng trưởng khu vực phía Bắc.

Hai là, phát huy tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, huy động sức mạnh tổng hợp với phương châm dựa vào nguồn lực bên trong là quyết định, chiến lược, cơ bản lâu dài và nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng bền vững dựa vào ba trụ cột: Thiên nhiên, con người, văn hóa kết hợp với xu thế hòa bình, hợp tác, hội nhập và cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cùng với thế mạnh về du lịch, tỉnh Quảng Ninh cần phát triển mạnh mẽ các trung tâm công nghiệp lấy các ngành công nghiệp công nghệ cao làm trọng tâm. Cùng với đó, tiếp tục chú trọng vào nâng cao hơn nữa chất lượng cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh gắn với chuyển đổi số, xoá bỏ các rào cản, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển doanh nghiệp, chuyển đổi số trong triển khai thu thuế điện tử, hóa đơn điện tử, giữ vững vị trí nhóm đầu về các chỉ số PCI, PAR Index, SIPAS và PAPI. Tiếp tục đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng, với việc phát triển đồng bộ, hiện đại bảo đảm liên thông, tổng thể, trọng tâm ưu tiên là phát triển hạ tầng giao thông chiến lược, công nghệ thông tin, viễn thông, cảng biển và dịch vụ cảng biển, hạ tầng các khu công nghiệp, khu kinh tế.

Ba là, tiếp tục kiên trì thực hiện tổ chức không gian phát triển “một tâm, hai tuyến đa chiều, hai mũi đột phá, ba vùng động lực”, nhằm bảo đảm mục tiêu liên kết, đồng bộ để phát huy thế mạnh của từng địa phương trong tỉnh cũng như thế mạnh của tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Trong đó, trọng tâm là thành phố Hạ Long, trung tâm chính trị - hành chính - kinh tế - văn hóa của tỉnh; phát triển đô thị theo mô hình đa cực, lấy vịnh Cửa Lục làm trung tâm kết nối. Tuyến hành lang phía Tây xuất phát từ Hạ Long đến Đông Triều hướng tới đồng bằng sông Hồng và Thủ đô Hà Nội; phát triển chuỗi đô thị - công nghiệp xanh, công nghiệp sạch, công nghệ cao và du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh; trong đó Khu kinh tế ven biển Quảng Yên là hạt nhân, động lực tăng trưởng mới của tuyến phía Tây và của tỉnh, phát triển theo mô hình “Thành phố thông minh” với các khu đô thị - công nghiệp - dịch vụ - cảng biển thông minh, hiện đại. Tuyến hành lang phía Đông xuất phát từ Thành phố Hạ Long đến Thành phố Móng Cái và hướng tới Đông Bắc Á; phát triển chuỗi đô thị sinh thái - dịch vụ, thương mại, du lịch tổng hợp cao cấp, nông nghiệp sạch - công nghệ cao và kinh tế biển; lấy phát triển công nghiệp để dẫn dắt nông nghiệp. Phát triển khu kinh tế Vân Đồn và khu kinh tế Cửa khẩu Móng Cái là hai mũi đột phá.  Đồng thời, tiếp tục đầu tư xây dựng và hoàn thiện hạ tầng, trong đó có ưu tiên tuyến đường từ Uông Bí lên Yên Tử, đường kết nối với Lạng Sơn, Bắc Giang, đường ven biển, hạ tầng cửa khẩu biên giới. Đầu tư cảng Móng Cái để thúc đẩy vận tải đường biển từ phía Nam ra phía Bắc, đẩy mạnh kết nối sân bay Vân Đồn và sân bay Cần Thơ để kết nối nhanh nhất với đồng bằng sông Cửu Long, tạo thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa từ miền Nam ra miền Bắc, giảm tải cho đường bộ Bắc - Nam.

Bốn là, tiếp tục coi trọng thực hiện gắn kết chặt chẽ giữa các mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát triển con người; phát triển văn hóa ngang tầm với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc. Giai đoạn tới, Tỉnh tập trung phát huy tối đa mọi tiềm năng, lợi thế khác biệt, năng lực hạ tầng giao thông vượt trội để phát triển kinh tế tổng hợp, toàn diện, hiện đại với độ mở cao. Đồng thời nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu kinh tế, tháo gỡ khó khăn các doanh nghiệp, phát triển doanh nghiệp mới, phát triển kinh tế hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình. Quảng Ninh có thể phát triển các ngành công nghiệp mới, cũng như phát triển chế biến sản phẩm nông sản và sản xuất điện từ năng lượng Mặt trời và gió nhưng vẫn giữ vững sự ổn định và phát triển bền vững ngành khai thác than đá truyền thống. Thực hiện tốt chính sách bảo đảm an sinh, nâng cao phúc lợi xã hội; chú trọng đối tượng chính sách, người có công, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo, vùng khó khăn. Quan tâm, chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế; giải quyết việc làm mới, nâng cao thu nhập cho người lao động. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển văn hóa, con người, xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh. Thực hiện bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng sống mọi mặt của nhân dân, hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần theo các tiêu chí của “hạnh phúc”; bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Năm là, tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ hội nhập phù hợp với điều kiện địa phương. Trong đào tạo chất lượng nguồn nhân lực, Quảng Ninh có định hướng cụ thể về đối tượng gắn với nhu cầu, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, chú trọng bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác chuyên môn như công nghệ, y tế, giáo dục, môi trường, nông nghiệp; bồi dưỡng ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác du lịch, cán bộ địa phương biên giới... Đồng thời, ưu tiên những ngành, nghề, lĩnh vực mà tỉnh cần đáp ứng nguồn nhân lực thực hiện mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, du lịch, công nghiệp và hội nhập, như ngoại ngữ, du lịch, dịch vụ, cải cách hành chính, quản lý đô thị, tin học... Thời gian tới, Quảng Ninh tiếp tục gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ; đẩy mạnh cơ cấu lại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức cạnh tranh của nền kinh tế trên nền tảng nguồn nhân lực chất lượng cao, yếu tố đổi mới sáng tạo, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, tham gia sâu rộng vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Tỉnh Quảng Ninh tập trung chiến lược phát triển con người trên cơ sở một hệ thống chính sách đồng bộ hướng tới con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Bằng việc giải quyết tốt các vấn đề này, tỉnh Quảng Ninh đã, đang và sẽ tạo được yếu tố nội sinh của nguồn nhân lực, tạo cơ sở bền vững cho phát triển và hội nhập./.

-------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.  Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020 – 2025, https://www.quangninh.gov.vn/

2. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 80/QĐ-TTg Phê duyệt Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, ngày 11-2-2023.

3. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo tình hình KT-XH, công tác chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh năm 2020 và kế hoạch phát triển KT-XH năm 2021, https://baoquangninh.vn/