Phát huy tiềm năng và lợi thế, tỉnh Quảng Ninh phấn đấu trở thành đầu tàu du lịch quốc gia, trung tâm du lịch quốc tế
Theo Quyết định số 80/QĐ-TTg,ngày 11-02-2023, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, Quảng Ninh được xác định là “cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc; một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện; trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước… phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế”.
Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với ưu thế là một trong những tỉnh có kho di sản văn hóa và tài nguyên du lịch to lớn, phong phú, đa dạng, đặc sắc với nhiều danh lam thắng cảnh, di sản, kỳ quan thiên nhiên thế giới cùng truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán, lễ hội đa dạng, Quyết định số 80/QĐ-TTg xác định du lịch Quảng Ninh là “ngành kinh tế mũi nhọn”, “là đầu tàu du lịch quốc gia, trung tâm du lịch quốc tế”. Mục tiêu này đòi hỏi tỉnh Quảng Ninh cần phải huy động mọi nguồn lực, phát huy tiềm năng và lợi thế mạnh của tỉnh để biến khát vọng thành hiện thực.
1. Những ưu thế và tiềm năng vượt trội cho phát triển du lịch
Tỉnh Quảng Ninh có nhiều lợi thế để triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế về văn hóa - du lịch; có nhiều điều kiện đặc biệt thuận lợi để bứt phá trong phát triển văn hóa - du lịch, tạo đòn bẩy đưa Quảng Ninh trở thành một trong những trung tâm du lịch quốc tế trong thời gian tới.
Về điều kiện tự nhiên: Quảng Ninh có thiên nhiên kỳ thú, địa hình, địa mạo đa dạng, vị trí địa lý vô cùng thuận lợi cho quá trình giao lưu, hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực. Đây là một điều kiện vô cùng thuận lợi, một ưu thế vượt trội của Quảng Ninh trong quá trình hội nhập quốc tế về mọi mặt kinh tế - xã hội, đặc biệt là về văn hóa - du lịch.
Nằm ở phía Đông Bắc của Tổ quốc, Quảng Ninh có vị trí địa lý chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, là cửa ngõ hội nhập với thế giới của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, là điểm nút trong khu vực hợp tác “hai hành lang, một vành đai” kinh tế Việt Nam - Trung Quốc và kết nối với khu vực ASEAN.Quảng Ninh là tỉnh duy nhất có đường biên giới trên bộ, trên biển tiếp giáp với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Phía bắc của tỉnh (bao gồm các huyện Bình Liêu, Hải Hà và thành phố Móng Cái) giáp huyện Phòng Thành và thị trấn Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) với 132,8 km đường biên giới; phía đông là Vịnh Bắc Bộ; phía tây giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương; phía nam giáp với thành phố Hải Phòng. Toàn tỉnh có đường bờ biển dài 250 km.
Quảng Ninh là tỉnh trung du miền núi nằm ở vùng duyên hải, có địa hình đa dạng, độc đáo được ví như một “Việt Nam thu nhỏ”; địa hình của tỉnh có thể chia thành 3 vùng gồm có: vùng núi,vùng trung du và đồng bằng ven biển,vùng biển và hải đảo, với 80% diện tích là đồi núi đan xen biển cả và đồng bằng, hình thành nhiều cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp. Trong đó, dạng địa hình biển đảo là dạng địa hình đặc trưng, chi phối, tạo cho Quảng Ninh hình ảnh tự nhiên kỳ vĩ, không thể lẫn lộn, là nền tảng tạo nên Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, quần đảo Cô Tô, bãi tắm Trà Cổ, Vườn quốc gia Bái Tử Long… Dạng địa hình trung du có hồ Yên Lập (Hoành Bồ), hồ Yên Trung (Uông Bí), thác Lựng Xanh (Uông Bí), thác Mơ (Yên Hưng), rừng thông (Yên Hưng)... Dạng địa hình đồi núi có rừng nguyên sinh Yên Tử, Khu Bảo tồn Đồng Sơn - Kỳ Thượng... Có thể nói, tỉnh Quảng Ninh đã được thiên nhiên ưu đãi với những điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi cho quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, mà ít địa phương nào trong cả nước có được.
Về tài nguyên văn hóa - du lịch, Quảng Ninh là tỉnh rất giàu có về tài nguyên văn hóa - du lịch, bao gồm cả các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Tỉnh sở hữu hệ thốngdanh lam, thắng cảnh và các cảnh quan thiên nhiên phong phú, kỳ thú, tươi đẹp như: núi Yên Tử (thành phố Uông Bí), núi Am Váp (thị xã Đông Triều), di sản thiên nhiên và kỳ quan thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long (thành phố Hạ Long), nhiều bãi biển đẹp (Trà Cổ, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng...).
Nơi đây còn lưu giữ hơn 600 di tích lịch sử, văn hóa, trong đó có 5 khu di tích quốc gia đặc biệt, bao gồm: danh lam thắng cảnh vịnh Hạ Long (thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả, huyện Vân Đồn, với hệ thống đảo đá và hang động tuyệt đẹp, là di sản thiên nhiên thế giới); di tích và danh thắng Yên Tử (thành phố Uông Bí- nơi hình thành, ra đời và phát triển của Trung tâm Phật giáo Thiền tông thuần Việt); di tích lịch sử Bạch Đằng (thị xã Quảng Yên, với quần thể các bãi cọc, đình, đền, miếu dàn trải bên tả ngạn sông Bạch Đằng); khu di tích nhà Trần (thị xã Đông Triều, gồm quần thể các lăng, mộ, đền, chùa, am, tháp, trung tâm văn hóa tâm linh tiêu biểu của nhà Trần); và di tích lịch sử đền Cửa Ông (thành phố Cẩm Phả và huyện Vân Đồn, với khu đền thờ Hưng Nhượng Đại vương Trần Quốc Tảng). Đồng thời, tỉnh Quảng Ninh có 9 bảo vật quốc gia (Hộp vàng Ngọa Vân - Yên Tử; Trống đồng Quảng Chính; Bình gốm Đầu Rằm hay còn gọi là gốm Hoàng Tân; Trống đồng thời Trần; Mâm bồng gốm men vẽ nhiều màu; Bình gốm hoa sen thời Lý; Bình gốm hoa nâu Kinnari có niên đại thời Lý;Thạp gốm hoa nâu có niên đại thời Lý; Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông và xá lị của Phật hoàng Trần Nhân Tông tôn trí ở chùa Hoa Yên). Nhiều di sản được phân bố trong những không gian rộng lớn, có phong cảnh tự nhiên tươi đẹp…
Quảng Ninh còn là nơi sinh sống của cộng đồng các dân tộc Kinh, Tày, Dao, Sán Chay, Sán Dìu, Hoa…với bản sắc văn hóa đa dạng, đặc sắc với hàng chục lễ hội truyền thống mang đặc trưng của từng vùng miền, có 6 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia (lễ hội truyền thống đình Trà Cổ - Móng Cái; lễ hội truyền thống đình Quan Lạn - Vân Đồn; hát nhà tơ, còn gọi là hát cửa đình - Móng Cái; hát then - Bình Liêu; lễ hội Tiên Công - Quảng Yên; và lễ hội đền Cửa Ông - Cẩm Phả). Ngoài ra, còn phải kể đến những lễ hội rất độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số như: Hội làng của đồng bào Dao ở xã Bằng Cả (Hoành Bồ); lễ hội Soóng Cọ; lễ hội đình Lục Nà của đồng bào Tày, xã Lục Hồn (Bình Liêu), lễ hội đình Trà Cổ (Móng Cái), lễ hội Vân Đồn (xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn), lễ hội Tiên Công, lễ hội Bạch Đằng (thị xã Quảng Yên), hội chùa Quỳnh Lâm, hội đền An Sinh (thị xã Đông Triều)…
Có thể nói, đây là vốn di sản văn hóa quý báu vô cùng dồi dào, đáng mơ ước với nhiều địa phương trong cả nước,góp phần khẳng định những giá trị khác biệt của Quảng Ninh, là“nguồn vốn” to lớn để văn hóa - du lịch tỉnh Quảng Ninh phát triển vượt bậc không chỉ ở trong phạm vi nội địa mà còn có khả năng vươn tầm giá trị trên thị trường văn hóa - du lịch quốc tế.
Về kết cấu hạ tầng cho phát triển du lịch, Quảng Ninh là tỉnh có điều kiện thông thương với Trung Quốc - thông qua hệ thống các cửa khẩu trên đất liền và trên biển; nằm trong khu vực hợp tác “Hai hành lang, một vành đai” kinh tế Việt Nam - Trung Quốc; Hợp tác liên vùng Vịnh Bắc Bộ mở rộng, cầu nối ASEAN - Trung Quốc, Hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore... Hệ thống các công trình hạ tầng trọng điểm kết nối đã được đầu tư đồng bộ, cơ bản đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp, các công ty du lịch lữ hành trong và ngoài nước. Quảng Ninh đã xây dựng hệ thống giao thông đồng bộ, tạo chuỗi liên kết: đường bộ - đường không - đường thủy hiện đại, mang đẳng cấp quốc tế, như: Cảng Hàng không quốc tế Vân Đồn, Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long - cảng tàu biển chuyên biệt phục vụ du lịch duy nhất của Việt Nam ở thời điểm hiện nay.
Quảng Ninh đã triển khai thực hiện ba tuyến cao tốc gồm cao tốc Hạ Long - Hải Phòng, cao tốc Hạ Long - Vân Đồn, cao tốc Vân Đồn - Móng Cái dài hơn 100km. Cao tốc Nội Bài - Hạ Long - Móng Cái là tuyến đường giao thông huyết mạch kết nối tỉnh Quảng Ninh với các trung tâm lớn trong nước và khu vực ASEAN. Quảng Ninh đang triển khai đầu tư một số công trình, dự án trọng điểm như: đường bao biển Hạ Long - Cẩm Phả; đầu tư xây dựng hầm đường bộ qua vịnh Cửa Lục, hệ thống cầu Cửa Lục 1, 2,3 để kết nối không gian đô thị giữa thành phố Hạ Long với huyện Hoành Bồ…Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển kinh tế khu vực biên giới của tỉnh, trong đó có du lịch quốc tế.
Về hệ thống dịch vụ - thương mại phục vụ phát triển du lịch, số lượng cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh tăng nhanh, tính đến năm 2020, hệ thống khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp từ ba sao trở lên hiện có 7.587 phòng, tăng 68% so với năm 2015(1). Chất lượng các khu lưu trú cũng không ngừng được nâng cấp, mang đến sự tiện ích tối đa cho du khách; trong đó có khu khách sạn, resort cao cấp bên cạnh một số sân gofl, trung tâm thương mại mang tầm quốc tế và hệ thống bảo tàng, khu vui chơi đa dạng như:khu nghỉ dưỡng Vinpearl Hạ Long, công viên Đại Dương, quần thể du lịch nghỉ dưỡng và sân golf FLC, khu nghỉ dưỡng Yên Tử Legacy, khu nghỉ dưỡng cao cấp suối khoáng nóng Quang Hanh… làm cho hệ sinh thái du lịch của tỉnh dần hoàn thiện, góp phần kéo dài thời gian trải nghiệm, lưu trú và tăng chi tiêu của du khách.
Nhờ đó, không gian du lịch, sản phẩm du lịch được mở rộng và đa dạng hóa, tăng trưởng mạnh mẽ với 4 trung tâm du lịch, 33 tuyến, 91 điểm du lịch, 8 khu du lịch cấp tỉnh, 5 khu du lịch cấp quốc gia; tập trung phát triển 4 dòng sản phẩm chủ lực: du lịch biển đảo, du lịch tâm linh, du lịch thương mại biên giới và du lịch sinh thái cộng đồng. Các sản phẩm du lịch của tỉnh ngày càng có tính cạnh tranh cao, phong phú, đa dạng. Nhiều sản phẩm chất lượng, có tính biểu tượng, khác biệt đã được những tập đoàn, doanh nghiệp lớn đầu tư bài bản, chuyên nghiệp, trở thành động lực, thu hút lượng lớn du khách(2). Các chỉ tiêu của du lịch được cải thiện rõ rệt; số lượng khách, doanh thu, số ngày lưu trú của khách ngày càng tăng dần.
Bên cạnh đó, các dịch vụ hỗ trợ du lịch cũng không ngừng được hoàn thiện, phát triển nhanh chóng, làm tăng thêm sức hút cho du lịch Quảng Ninh đối với du khách nội địa và quốc tế. Nổi bật là: Dịch vụ tài chính, ngân hàng phát triển, bảo đảm an toàn, hiệu quả, ứng dụng công nghệ hiện đại. Dịch vụ viễn thông phát triển tốt, hệ thống thông tin di động phủ sóng đạt 96% diện tích các khu dân cư trên địa bàn tỉnh; sóng di động 3G, 4G được phủ sóng 100% trung tâm các xã; Quảng Ninh đã chuẩn bị sẵn sàng ứng dụng công nghệ 5G; cung cấp wifi miễn phí cho nhiều khu du lịch, điểm văn hóa trên địa bàn(3).
Đây là một trong những nền tảng cần thiết và là nhữngnguồn lực quan trọng, chắp thêm cánh cho ngành du lịch Quảng Ninh vươn rộng ra thị trường quốc tế, thực hiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả.
2. Tận dụng hiệu quả nhiều nguồn lực, cách thức để phát triển và mở rộng hợp tác quốc tế về du lịch
Hiện nay, ngành du lịch Quảng Ninh đang phát triển không ngừng và ngày càng đóng góp đáng kể vào cơ cấu kinh tế chung của tỉnh, đóng vai trò như một cầu nối giao lưu văn hóa, hữu nghị giữa Quảng Ninh với các địa phương trong cả nước và các nước trên thế giới. Nhận thấy tầm ảnh hưởng của phát triển du lịch, tỉnh Quảng Ninh đã đưa ra nhiều định hướng và cách thức triển khai thực hiện để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo đòn bẩy để tăng cường hợp tác quốc tế, đưa Quảng Ninh trở thành điểm du lịch quốc tế trong tương lai gần.
Thứ nhất, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tạo tiền đề thúc đẩy phát triển du lịch quốc tế.
Việc đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp tỉnh có điều kiện huy động được những nguồn lực từ bên ngoài; bồi đắp thêm tiềm lực từ bên trong, từ đó góp phần đạt được một số kết quả quan trọng. Nổi bật là tăng trưởng kinh tế luôn được duy trì ở tốc độ cao, thu ngân sách nhà nước luôn đứng trong nhóm 5 tỉnh, thành phố cao nhất cả nước, môi trường đầu tư kinh doanh không ngừng được cải thiện, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) luôn nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước và duy trì được thành tích dẫn đầu PCI trong 5 năm liên tục…
Trong vòng 10 năm (2010 - 2020), tỉnh đã thu hút được hơn 200 dự án có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), với tổng vốn đăng ký trên 6,5 tỷ USD; có 21 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đang có hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các dự án FDI được duy trì ổn định và phát triển, giúp Quảng Ninh tăng nguồn vốn đầu tư phát triển, tăng năng lực sản xuất, thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới thiết bị, công nghệ(4)… Năm 2022, Quảng Ninh đứng thứ ba trong top 10 địa phương thu hút FDI nhiều nhất cả nước (20 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 2,186 tỷ USD). Riêng trong tháng 1-2023, Quảng Ninh đã có nhiều buổi tiếp, làm việc cùng các nhà đầu tư quốc tế đến từ Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc và Trung Quốc... dự định đầu tư vào Quảng Ninh, với số vốn hàng trăm triệu USD. Trong năm 2023, tỉnh dự kiến sẽ thu hút 18 dự án FDI(5).
Điều này đã cho thấy sự nỗ lực, chủ động trong việc hội nhập kinh tế quốc tế của Quảng Ninh; qua đó, khẳng định được sức mạnh tổng hợp, tạo đột phá và nâng cao sức cạnh tranh của tỉnh, khẳng định được vị thế đối với các nhà đầu tư lớn trên thế giới. Quảng Ninh đã đẩy mạnhxúc tiến, quảng bá du lịch, tăng cường thông tin truyền thông về truyền thống văn hóa, nét đẹp con người, đặc sắc cảnh quan, di sản của tỉnh, kêu gọi đối tác quốc tế đầu tư trong lĩnh vực du lịch; góp phần đẩy mạnh phát triển du lịch, biến Quảng Ninh trở thành một điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách quốc tế.
Thứ hai, thường xuyên, liên tục có nhiều hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hóa, trực tiếp đẩy mạnh quảng bá du lịch địa phương, nâng cao vị thế của Quảng Ninh trên thị trường du lịch quốc tế.
Tỉnh Quảng Ninh đã tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu văn hóa với các tổ chức nước ngoài và quốc tế; gắn kết các hoạt động ngoại giao văn hóa với các hoạt động thông tin đối ngoại, ngoại giao, xúc tiến, quảng bá du lịch... Tỉnh đã phối hợp và tổ chức thành công nhiều sự kiện, hội nghị quốc tế, tiêu biểu như Carnaval Hạ Long, Lễ hội Hoa Anh đào - Mai vàng Yên Tử, Cuộc thi Tiếng hát ASEAN+3, Liên hoan Xiếc quốc tế - Hạ Long 2019;... Quảng Ninh đã đăng cai tổ chức hàng loạt các sự kiện: Đại hội đồng Diễn đàn Du lịch liên khu vực Đông Á (EATOF) lần thứ 17, gắn với Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập EATOF, cuộc thi Hoa hậu biển đảo Việt Nam 2022… Đến nay, Quảng Ninh trở thành điểm đến có uy tín cho nhiều sự kiện cấp quốc gia, quốc tế, đặc biệt là các chương trình giao lưu thể thao, văn hóa quốc tế kết hợp giới thiệu, quảng bá du lịch địa phương. Các sự kiện này trở thành cơ hội để quảng bá du lịch Quảng Ninh - điểm đến “thân thiện, an toàn, hấp dẫn”. Gần đây, tỉnh cũng đã tăng cường hoạt động đón và tổ chức các đoàn Famtrip, presstrip quốc tế đến khảo sát các tuyến, điểm du lịch tại Quảng Ninh; xây dựng các ấn phẩm tuyên truyền nhiều ngôn ngữ quảng bá về văn hóa, du lịch Quảng Ninh để phát trên các phương tiện vận chuyển, nhà ga, chuyến bay trong nước và quốc tế.
Thông qua các chương trình giao lưu văn hóa quốc tế, hình ảnh vùng đất và con người Quảng Ninh đã được quảng bá rộng rãi và để lại những ấn tượng tốt đẹp, sâu đậm trong du khách, bạn bè quốc tế. Từ sự thâm nhập, giao lưu văn hóa đối ngoại, Quảng Ninh mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnhvực khác nhau với nhiều đối tác quốc tế, trong đó có hợp tác về du lịch. Đến nay, ngoài 6 địa phương của Trung Quốc, Quảng Ninh đã thiết lập quan hệ hợp tác văn hóa với 8 địa phương khác của các nước: Hàn Quốc, Lào, Belarus. Hiện tỉnh đang xúc tiến phát triển quan hệ hợp tác với các đối tác tiềm năng là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Ba Lan và một số đối tác khác ở châu Âu(6).
Thứ ba, tỉnh thực hiện nhiều giải pháp đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ sinh thái du lịch theo hướng bền vững, hội nhậpquốc tế ngày càng sâu rộng. Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm về đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”, tỉnh đã tìm tòi, thực thi nhiều chủ trương, biện pháp, cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển du lịch toàn diện ngày càng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn theo đúng quy hoạch. Không gian phát triển du lịch được mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm gắn với bảo vệ môi trường, giữ gìn cảnh quan, bảo tồn, phát huy giá trị của các di sản. Thu hút được nhiều nhà đầu tư chiến lược có uy tín, thương hiệu đầu tư vào lĩnh vực du lịch, dịch vụ. Hạ tầng du lịch có bước phát triển đột phá, ngày càng đồng bộ, hiện đại, tạo ra các sản phẩm du lịch đa dạng, đặc sắc, nâng cao chất lượng dịch vụ.
Với những nỗ lực đó, tổng số khách du lịch trong 5 năm (2015-2020) ước đạt 53 triệu lượt (trong đó khách quốc tế đạt 19,3 triệu lượt), tăng bình quân 1,7%/năm; khách nội địa tăng bình quân 9,5%/năm; doanh thu du lịch tăng bình quân 11,9%/năm; du lịch đóng góp khoảng 7,1% tổng thu ngân sách nội địa (giai đoạn 2011-2015 chiếm 5,1%).Năm 2022, Quảng Ninh đón 11,6 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế đạt 304.000 lượt. Doanh thu đạt 22.582 tỷ đồng. Năm 2023, Quảng Ninh phấn đấu đón 12,5 triệu lượt khách, trong đó khách du lịch quốc tế ước đạt 2 triệu lượt người. Doanh thu từ khách du lịch đạt 27.000 tỷ đồng(7).
Thứ tư, thực hiện hiệu quả nhiều phương thức đầu tư để khai thác và phát triển du lịch theo hướng liên ngành, liên vùng, liên quốc gia tạo chuỗi giá trị cung ứng hiệu quả cho sản phẩm du lịch của tỉnh.
(1) Tăng cường thực hiện xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cho phát triển du lịch.
Sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân lớn đầu tư vào phát triển hạ tầng ngành du lịch, với nhiều dự án có quy mô lớn, nghỉ dưỡng chất lượng cao và mở mới các đường bay thẳng, giá rẻ, được đưa vào sử dụng làm tăng thêm nội lực kết nối của điểm đến trong khả năng tiếp nhận, phục vụ du khách, tạo tác động lan tỏa, định vị được hình ảnh điểm đến chung cho du lịch Việt Nam. Các khu du lịch đẳng cấp quốc tế nâng tầm thương hiệu du lịch Việt Nam có thể sánh vai và đủ sức cạnh tranh với các thương hiệu du lịch trong khu vực. Chính sự nỗ lực này đã tạo ra sự tăng trưởng ổn định của lượng khách du lịch nội địa và quốc tế đến với Quảng Ninh trong những năm vừa qua.
Bên cạnh đó, tỉnh đã có bước đột phá trong việc huy động các nguồn lực đầu tư, tôn tạo, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, các khu di tích đặc biệt quốc gia, góp phần thúc đẩy kinh tế du lịch phát triển. Công nghiệp văn hóa được hình thành và phát triển, đã có một số sản phẩm văn hóa đặc trưng thu hút sự quan tâm của đông đảo khách du lịch và góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân.
(2) Thực hiệnphối hợp liên ngành trong phát triển du lịch.
Trong điều kiện hội nhập hiện nay, liên kết du lịch là vấn đề tất yếu đặt ra nhằm khai thác lợi thế, tiềm năng đưa ngành du lịch phát triển, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp nhiều hơn cho ngân sách địa phương. Quảng Ninh đãđề ra chiến lược định vị hình ảnh, sản phẩm và thương hiệu đặc trưng từng địa phương, khu vực trong tỉnh, nhất là phát triển chuỗi các sản phẩm du lịch mới, hấp dẫn, liên vùng và liên quốc gia, với chất lượng cao và tích hợp nhiều tiện ích, trải nghiệm thú vị cho du khách. Ngành du lịch Quảng Ninh đã chú trọng liên kết giữa ngành du lịch với các ngành, lĩnh vực khác; giữa Quảng Ninh với các địa phương trong nước và ở ngoài nước trong chuỗi giá trị sản phẩm du lịch biển, du lịch sinh thái khám phá, du lịch nghỉ dưỡng đặc sắc, cao cấp. Bên cạnh đó, tiếp tục phát triển các sản phẩm du lịch đa dạng, độc đáo, có sức cạnh tranh cao, nhất là sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng cao cấp gắn với phát huy giá trị thiên nhiên, con người, văn hóa của Quảng Ninh; khai thác tối đa lợi thế mới từ hệ thống hạ tầng giao thông được đầu tư hiện đại đã đi vào hoạt động… Nhiều doanh nghiệp đã xây dựng những gói sản phẩm hấp dẫn; đồng thời thực hiện đầu tư bảo trì, nâng cấp cơ sở vật chất để thu hút khách quốc tế, khai thác hiệu quả mùa cao điểm du lịch quốc tế.
Quảng Ninh hiện đang tiếp tục đẩy nhanh tiến độ triển khai Đề án Phục hồi và phát triển bền vững ngành Du lịch đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030; Đề án Phát triển du lịch cộng đồng bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Ngành du lịch đã chủ động liên kết với các hãng hàng không, tàu biển, các tập đoàn du lịch hàng đầu quốc tế; đầu tư phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch, sản phẩm du lịch có chất lượng, đa dạng, khác biệt, có lợi thế của du lịch Quảng Ninh gắn với các khu vực động lực phát triển du lịch.
(3) Thực hiện phối hợp liên vùng, liên quốc gia trong phát triển du lịch.
Quảng Ninh đã tổ chức khoảng 70 chuỗi sự kiện, hoạt động, chương trình kích cầu du lịch, xúc tiến các chuyến bay trực tiếp,tổ chức các chương trình làm việc quảng bá, kích cầu du lịch trong và ngoài nước ở các thị trường chính như Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, phục vụ nhu cầu du lịch nghỉ dưỡng, trải nghiệm di sản thiên nhiên thế giới của du khách, nhằm mục tiêu mở được các chuyến bay trực tiếp từ thị trường này đến Quảng Ninh qua Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn(8).
Đồng thời, để khai thác tối đa tiềm năng, thu hút nhiều hơn các thị trường khách du lịch, nhất là trong giai đoạn phục hồi sau đại dịch COVID-19, Quảng Ninh đã chủ động phối hợp với các tỉnh, thành phố trên cả nước mở rộng hợp tác phát triển du lịch, đẩy mạnh liên kết vùng, liên kết trong chuỗi cung ứng dịch vụ. Từ đó hình thành đa dạng các tour, tuyến du lịch lớn như: Quảng Ninh - Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh - Đà Nẵng, Quảng Ninh - Hà Nội, Quảng Ninh - Hải Phòng và các vùng trọng điểm du lịch của cả nước như Ninh Bình, các tỉnh, thành phố duyên hải miền Trung (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bình Định) và 13 tỉnh, thành phố Đồng bằng sông Cửu Long, và nhiều tỉnh, thành phố khác trong cả nước. Với khẩu hiệu du lịch “An toàn - Hấp dẫn - Trách nhiệm”, tỉnh Quảng Ninh đã triển khai nhiều chính sách kích cầu du lịch cùng nhiều sản phẩm du lịch mới. Trong đó, điểm nhấn là 64 hoạt động du lịch, nghệ thuật, ẩm thực hấp dẫn, quyến rũ và khác biệt, như: Hạ Long huyền ảo trong sương, Yên Tử - Về miền đất Phật mùa thu, trải nghiệm miền sơn cước Bình Liêu, Lễ hội ẩm thực hải sản biển Quảng Ninh, Carnaval Hạ Long mùa đông… Ngành du lịch Quảng Ninh đã giới thiệu nhiều sản phẩm du lịch mới khác biệt gắn với đặc trưng các mùa trong năm, đặc biệt mùa thu - đông, kết hợp nhiều chương trình ưu đãi hấp dẫn.
(4) Tăng cường thông tin và chuyển đổi số trong ngành du lịch.
Trong thời gian qua, Quảng Ninh đã đẩy mạnh cung cấp thông tin du lịch qua những website chính thống. Công tác xúc tiến du lịch Quảng Ninh vào thị trường nội địa cũng như trên thị trường quốc tế diễn ra ngày càng chuyên nghiệp.
Quảng Ninh đưa vào hoạt động fanpage “Thông tin du lịch Quảng Ninh”, đến nay đã có gần 30.000 người theo dõi; đồng thời, xây dựng fanpage bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, liên tục cập nhật các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch; đăng tải thông tin về du lịch Quảng Ninh tới du khách trên các website, Youtube, Instagram, Zalo...Cùng với đó, tỉnh triển khai cổng thông tin du lịch tại 2 địa chỉ website: halongtourism.com.vn và discoverhalong.com bằng cả ba ngôn ngữ: Việt, Anh, Trung Quốc. Nhờ đó, du khách có thể tìm kiếm đầy đủ thông tin về điểm đến, dịch vụ giải trí, các lễ hội, ẩm thực độc đáo, cơ sở lưu trú, mua sắm... cùng bản đồ số du lịch, hướng dẫn đặt phòng trực tuyến, đặt trước xe theo lịch trình, đường dây nóng hỗ trợ và phản ánh chất lượng du lịch...Tổ chức chương trình khảo sát tại Quảng Ninh cho hãng lữ hành, báo chí quốc tế; đẩy mạnh hoạt động e-marketing, chuyển đổi số và tăng cường ứng dụng công nghệ để tiếp cận thị trường(9).
Trong những năm gần đây, đặc biệt kể từ khi dịch bệnh COVID-19 bùng phát trên toàn thế giới, ngành Du lịch Quảng Ninh đã nhanh chóng bắt nhịp xu hướng, yêu cầu của thực tế, triển khai nhiều giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong các hoạt động du lịch, xúc tiến, quảng bá du lịch nhằm đem lại trải nghiệm mới, tạo môi trường minh bạch và an toàn cho du khách.Ngành du lịch Quảng Ninh tiếp tục triển khai mạnh mẽ các giải pháp chuyển đổi số thông qua đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ du lịch thông minh, như: Thẻ du lịch thông minh, bản đồ số du lịch, ứng dụng thuyết minh du lịch, ứng dụng du lịch trên nền tảng di động... phục vụ du khách. Đồng thời, ứng dụng công nghệ số để quản lý, điều hành du lịch; hình thành các sản phẩm du lịch số bằng công nghệ thực tế ảo, số hóa điểm đến du lịch bằng giao diện ảnh 360, 3D.
Bảo tàng Quảng Ninh cũng xây dựng mô hình “bảo tàng ảo” giúp du khách trải nghiệm tham quan trực tuyến, đồng thời hiển thị trên nền tảng số Google Arts & Culture - “cửa sổ” đưa các giá trị văn hóa, du lịch nổi trội của Việt Nam và Quảng Ninh đến với thế giới. Đã xây dựng phần mềm tích hợp dịch vụ hành khách qua cảng tàu du lịch theo hóa đơn điện tử. Từ tháng 6-2022, Ban Quản lý Vịnh Hạ Long thu phí vé tham quan Vịnh Hạ Long bằng internet banking và quét mã QR. Quảng Ninh dự kiến đưa vào hoạt động hệ thống bán vé tự động, cổng điện tử tra cứu thông tin tại Cảng tàu khách quốc tế Tuần Châu và Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long, tạo thuận tiện cho du khách tham quan Vịnh Hạ Long.Quảng Ninh cũng đang xây dựng phương án triển khai thí điểm mô hình “phố thông minh” không dùng tiền mặt tại khu du lịch Tuần Châu (thành phố Hạ Long); đầu tư hơn 100 điểm phát wifi công cộng miễn phí tại các khu vực sân bay, bến xe bus, địa điểm du lịch trên địa bàn để hỗ trợ người dân, du khách trong tra cứu các điểm đến; lắp đặt hệ thống camera giám sát ở một số hang động lớn như Đầu Gỗ, Thiên Cung… và hệ thống định vị GPS trên các tàu du lịch tham quan Vịnh Hạ Long(10)…
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực và đạt được những thành tựu quan trọngtrong xây dựng và phát triển ngành du lịch theo hướng tăng cường hội nhập quốc tế, tăng vị thế trong chuỗi giá trị, nhưng du lịch Quảng Ninh vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc và được đánh giá là phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế.
Một là, hiện nay hoạt động liên kết trong du lịch ở Quảng Ninh đã bắt đầu được vận hành triển khai nhưngtrên thực tế chưa có hiệu quả thực sự do một số cấp, ngànhcủa tỉnh vẫn chưaxác định du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, xã hội hóa và hội nhập quốc tế cao, mang nội dung văn hóa sâu sắc; thiếu chính sách vĩ mô, lâu dài, toàn diện, phù hợp để du lịch của tỉnh phát triển theo đúng tính chất của một ngành kinh tế vận hành theo quy luật thị trường. Chưa thực sự sáng tạo cũng như chủ động học hỏi cách làm, mô hình du lịch của những quốc gia có ngành du lịch phát triển, nên nhiều tiềm năng du lịch vẫn còn bị bỏ ngỏ.
Hai là, công tác xúc tiến, quảng bá các điểm, mô hình, sản phẩm du lịch và các dịch vụ kèm theo chưa thực sự được quan tâm, đẩy mạnh, triển khai một cách thường xuyên, liên tục, hiệu quả trên các kênh truyền thông, thông tin xã hội. Vì vậy, nhiều điểm du lịch lý thúđược đầu tư hạ tầng hoàn thiện, nhiều sản phẩm du lịch đa dạng, hấp dẫn nhưng vẫn chưa được du khách biết đến, nên vẫn còn xảy ra tình trạng lãng phí tài nguyên di sản.
Ba là, cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về đầu tư và hợp tác đầu tư trong lĩnh vực du lịch chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập, hoặc thiếu tính khả thi nên chưa phát huy tốt các nguồn lực xã hội cho phát triển du lịch, nhất là mô hình hợp tác công - tư trong các dự án xây dựng, khai thác các khu du lịch chất lượng cao, mang tầm cỡ quốc tế.
Bốn là, nguồn nhân lực cho phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch quốc tế của tỉnh Quảng Ninh còn nhiều hạn chế; số lượng và trình độ của đội ngũ nhân lực du lịch của tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới. Phần lớn đội ngũ nhân lực du lịch trong tỉnh hiện nay chưa được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp về chuyên môn, nghiệp vụ; trình độ ngoại ngữ còn yếu, đặc biệt thiếu đội ngũ nhân lực biết ngoại ngữ của một số nướcmà tỉnh đang nỗ lực mở rộng xúc tiến, quảng bá, hợp tác du lịch như Nga, Ấn Độ, Trung Đông, các nước nói tiếng Tây Ban Nha… Bên cạnh đó, kỹ năng giao tiếp, tinh thần, thái độ phục vụ... chưa thật chuyên nghiệp, đang trở thành rào cản trong phát triển mở rộng mạng lưới du lịch theo hướng hội nhập quốc tế của tỉnh. Ngoài ra, đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp du lịch cũng còn thiếu và yếu.
3. Một số giải pháp nhằm phát huy thế mạnh trong hội nhập quốc tế về du lịch thời gian tới
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả của ngành du lịch trong thời gian tới, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại và phát triển đồng bộ, bền vững và hội nhập quốc tế… Xây dựng, phát triển và định vị thương hiệu du lịch quốc gia gắn với hình ảnh chủ đạo, độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc”(11). Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 147/QĐ-TTg, ngày 22-1-2020, đã đề ra quan điểm: “Phát triển du lịch bền vững và bao trùm, trên nền tảng tăng trưởng xanh… Phát triển đồng thời du lịch quốc tế và du lịch nội địa; đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch; tăng cường liên kết nhằm phát huy lợi thế tài nguyên tự nhiên và văn hóa; phát triển đa dạng sản phẩm du lịch, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam” (12). Theo đó, tỉnh Quảng Ninh xác định: “Đến năm 2030, xây dựng, phát triển Quảng Ninh giàu đẹp, văn minh, hiện đại; là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện, trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển… Đến năm 2045, Quảng Ninh là tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, vùng đô thị lớn mang tầm khu vực và quốc tế, một trong những đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia với động lực tăng trưởng chính là dịch vụ, du lịch, đổi mới sáng tạo, có cơ sở kinh tế vững chắc, có sức cạnh tranh cao”(13). Nhiệm vụ đến năm 2025: “Xây dựng tỉnh Quảng Ninh trở thành một trong những trung tâm du lịch quốc tế phát triển theo chiều sâu có trọng tâm, trọng điểm… Xây dựng các trung tâm du lịch trọng điểm tại Hạ Long, Cẩm Phả, Vân Đồn, Móng Cái, Uông Bí, Cô Tô trở thành động lực phát triển dịch vụ của tỉnh và của Vùng. Xây dựng thành phố Hạ Long trở thành trung tâm du lịch quốc gia mang tầm quốc tế gắn với bảo tồn và phát huy bền vững di sản kỳ quan thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long và khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng. Tập trung phát triển Khu kinh tế Vân Đồn và vùng biển đảo Vân Đồn, Cô Tô kết nối với vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long tạo thành chuỗi sản phẩm du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng đặc sắc, cao cấp. Phát triển đi đôi với tăng cường quản lý khu vực Uông Bí - Đông Triều - Quảng Yên trở thành trung tâm du lịch văn hóa - lịch sử - tâm linh, sinh thái, có sức hấp dẫn cao; khu vực Bình Liêu, Ba Chẽ, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà kết nối với thành phố Móng Cái phát triển du lịch sinh thái khám phá, trải nghiệm gắn với cảnh quan thiên nhiên và bản sắc văn hóa dân tộc. Thu hút các nhà đầu tư chiến lược, có tiềm lực, thương hiệu mạnh, đầu tư quy mô lớn, đồng bộ, hiện đại, phát triển du lịch, dịch vụ đẳng cấp, bền vững trên các đảo thuộc vùng biển Vân Đồn - Cô Tô, đảo Cái Chiên (Hải Hà), Vĩnh Trung, Vĩnh Thực gắn với khu du lịch quốc gia Trà Cổ (Móng Cái)” (14).
Để du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn, ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp theo định hướng của Đảng, chiến lược của Nhà nước và mục tiêu, nhiệm vụ của tỉnh đã đề ra, cần có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của ngành du lịch Quảng Ninh về hạ tầng, cơ sở vật chất, dịch vụ, sản phẩm… Cơ cấu lại các hoạt động du lịch phù hợp với tiềm năng, lợi thế, ưu thế riêng có của tỉnh, đáp ứng với xu thế toàn cầu và thích ứng với những biến động trên thị trường du lịch thế giới. Xây dựng các mô hình, sản phẩm du lịch mới, độc đáo trên cơ sở tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của tỉnh so với các địa phương khác trong cả nước và với các điểm du lịch của các nước trong khu vực và trên thế giới. Chủ động tham gia và có sáng kiến hình thành các nhóm hợp tác, liên kết phát triển du lịch vớicác địa phương, các quốc gia, các điểm đến trong khu vực ASEAN, châu Á-Thái Bình Dương. Phối hợp chặt chẽ, phát huy hiệu quả vai trò của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức, cá nhân Việt Nam, các kênh ngoại giao… nhằm quảng bá, phát triển du lịch của tỉnh.
Thứ hai, tăng cường đổi mới, tạo đột phá trong công tác xúc tiến đầu tư, thông tin, truyền thông, quảng bá về hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam nói chung và nét đẹp của cảnh quan, văn hóa, con người và các dân tộc tỉnh Quảng Ninh nói riêng tới du khách quốc tế. Đẩy mạnh hợp tác công-tư, huy động các nguồn lực xã hội trong nước và quốc tế để đầu tư phát triển cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng du lịch của tỉnh, nhất là ở những điểm du lịch có tiềm năng, bao gồm cả hạ tầng cứng và hạ tầng mềm; mở rộng mạng lưới giao thông đường bộ, đường hàng không…Trong đó, ưu tiên những nhà đầu tư có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật ngành du lịch, đặc biệt là cơ sở lưu trú, cơ sở vui chơi giải trí, khu nghỉ dưỡng phức hợp cao cấp, phù hợp với nhu cầu và xu hướng du lịch mới trong nước và trên thế giới.
Thứ ba, tăng cường đa dạng hóa các sản phẩm du lịch của tỉnh. Trong đó, tập trung đầu tư phát triển sản phẩm du lịch có giá trị gia tăng cao và tăng trải nghiệm cho du khách dựa trên lợi thế về tài nguyên tự nhiên và văn hóa của tỉnh; ưu tiên phát triển sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển, đảo và du lịch thể thao, giải trí biển phù hợp định hướng Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển. Tiếp tục tập trung nguồn lực đầu tư phát triển một số cụm du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng biển cao cấp, có thương hiệu mạnh trên thị trường du lịch quốc tế; chú trọng phát triển sản phẩm du lịch văn hóa, gắn với bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, lịch sử, truyền thống văn hóa; tập trung khai thác thế mạnh du lịch vượt trội của tỉnh, góp phần tạo dựng thương hiệu nổi bật của du lịch Việt Nam. Đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp và nông thôn, du lịch sinh thái và kết hợp du lịch với hội nghị, hội thảo, sự kiện (MICE).
Thứ tư, tăng cường kết hợp phát triển đa dạng thị trường khách du lịch quốc tế bên cạnh việc mở rộng thị trường khách du lịch quốc tế. Trong đó, cần chú trọng tiếp tục duy trì và mở rộng hơn nữa các thị trường du lịch quốc tế truyền thống của tỉnh như các thị trường Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Ôxtrâylia, Bắc Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu và Liên bang Nga; đặc biệt quan tâm phát triển các thị trường mới, có tiềm năng lớn như: Trung Đông, Nam Âu, Nam Mỹ, Nam Á (Ấn Độ); mở rộng phát triển các thị trường tiềm năng, có lượng khách du lịch ra nước ngoài hàng năm tăng nhanh. Đồng thời, tạo đột phá và phát triển mạnh hơn nữa thị trường khách du lịch nội địa; trong đó, đẩy mạnh phát triển thị trường khách du lịch nghỉ dưỡng, du lịch cuối tuần gắn với chăm sóc sức khỏe, giáo dục, tìm hiểu văn hóa lịch sử, trải nghiệm văn hóa dân tộc, tăng cường giao lưu văn hóa; định hướng lại thị trường khách du lịch lễ hội, văn hóa tâm linh theo hướng kết hợp hài hòa với các mục đích khác.
Thứ năm,nhanh chóng phục hồi và phát triển bền vững du lịch gắn với đẩy mạnh chuyển đổi số. Tập trung phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu, các nền tảng số kết nối hệ thống thông tin, hướng tới hình thành và phát triển hệ sinh thái du lịch thông minh, phục vụ khách du lịch trong nước, quốc tế và các doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực du lịch cũng như trong công tác quản lý du lịch của tỉnh, nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa và hiệu quả trong mọi hoạt động du lịch của tỉnh.
Thứ sáu,tạo điều kiện thuận lợi về nhập cảnh, xuất cảnh, đi lại, lưu trú cho khách du lịch quốc tế. Tạo điều kiện cho các hãng hàng không trong nước và quốc tế mở các đường bay mớitới Cảng hàng không Vân Đồn. Cảng tàu khách quốc tế Tuần Châu, cảng tàu khách quốc tế Hạ Long và các tuyến giao thông khác trực tiếp kết nối Quảng Ninh với các thị trường du lịch trọng điểm và tiềm năng trong nước và quốc tế. Tăng cường công tác quản lý môi trường du lịch, bảo đảm an ninh, an toàn cho du khách, chú trọng vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; tạo dựng môi trường du lịch văn hóa, văn minh, thân thiện, mến khách.
Thứ bảy, phát triển nguồn nhân lực du lịch theo cơ cấu hợp lý, bảo đảm số lượng, chất lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh, hội nhập quốc tế; có chính sách khuyến khích thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động toàn diện, nâng cao chất lượng nhân lực du lịch. Chú trọng đào tạo kỹ năng nghề và kỹ năng mềm cho lực lượng lao động trực tiếp phục vụ du lịch, đặc biệt là đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên du lịch tại điểm; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho cộng đồng dân cư tham gia kinh doanh du lịch và góp phần quảng bá điểm đến, hình ảnh du lịch của địa phương.
Thứ tám, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh.Hoàn thiện cơ chế,chính sách liên quan đến du lịch; đồng thời nhanh chóng kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về du lịch tại chính quyền tỉnh, bảo đảm đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành kinh tế mũi nhọn. Tăng cường đổi mới hoạt động phối hợp liên ngành, liên vùng, liên quốc gia về du lịch nhằm gia tăng hiệu quả, chất lượng, giá trị của các sản phẩm du lịch Quảng Ninh trong khu vực, trong cả nước và trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, tăng cường bảo vệ môi trường, chú trọng công tác dự báo, cảnh báo, chủ động phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu trong xây dựng, vận hành cơ sở dịch vụ du lịch./.
-----------------------
(1) Xem: “Toàn văn Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020-2025”, Báo Quảng Ninh điện tử, ngày 27-9-2020, https://baoquangninh.vn/toan-van-bao-cao-chinh-tri-dai-hoi-dai-bieu-dang-bo-tinh-lan-thu-xv-nhiem-ky-2020-2025-2502422.html
(2) Xem: “Phát triển du lịch Quảng Ninh bền vững và hội nhập”, Cổng thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ngày 13-9-2022, https://bvhttdl.gov.vn/phat-trien-du-lich-quang-ninh-ben-vung-va-hoi-nhap-20220913110108227.htm
(3) Xem: “Toàn văn Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020-2025”, Tlđd
(4) Xem: Hoài Anh: “Quảng Ninh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Báo Quảng Ninh điện tử, ngày 22-12-2020, https://baoquangninh.vn/quang-ninh-chu-dong-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-2514102.html
(5) Xem: Minh Đức: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Trang thông tin điện tử Công an Quảng Ninh, ngày 16-2-2023, https://conganquangninh.gov.vn/tin-tuc/tin-trong-tinh/chu-dong-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-24552.html
(6) Xem: Việt Hoa: “Tỉnh Quảng Ninh đẩy mạnh ngoại giao văn hóa”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 19-10-2020, https://tapchicongsan.org.vn/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/820409/tinh-quang-ninh-day-manh-ngoai-giao-van-hoa.aspx
(7) Xem: Hoàng Quỳnh: “Đổi mới để hút khách quốc tế”, Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh, ngày 11-1-2023, https://www.quangninh.gov.vn/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid=117415
(8) Xem: Hải Ngân: “Quảng Ninh: Tăng sức bật cho ngành du lịch”, Tạp chí Diễn đàn doanh nghiệp, ngày 19-12-2022, https://diendandoanhnghiep.vn/quang-ninh-tang-suc-bat-cho-nganh-du-lich-236394.html
(9) Xem: Hoàng Quỳnh: “Quảng Ninh: Hy vọng thị trường du lịch dịp cuối năm”, Trang thông tin điện tử Tổng cục Du lịch, ngày 30-7-2022, https://vietnamtourism.gov.vn/post/42739
(10) Xem: “Quảng Ninh: Chuyển đổi số ngành du lịch trong giai đoạn hiện nay”, Cổng thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ngày 12-10-2022, https://bvhttdl.gov.vn/quang-ninh-chuyen-doi-so-nganh-du-lich-trong-giai-doan-hien-nay-20221012081204341.htm
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 248 - 249
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 248 - 249
(13) “Toàn văn báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020-2025”, Báo Quảng Ninh điện tử, ngày 27-9-2020, https://baoquangninh.vn/toan-van-bao-cao-chinh-tri-dai-hoi-dai-bieu-dang-bo-tinh-lan-thu-xv-nhiem-ky-2020-2025-2502422.html
(14) “Toàn văn báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020-2025”, Báo Quảng Ninh điện tử, Tlđd
Chủ tịch Hồ Chí Minh với đất và người Quảng Ninh  (30/09/2023)
THAM LUẬN HỘI THẢO: Giải pháp xây dựng văn hóa doanh nghiệp đáp ứng sự phát triển của tỉnh Quảng Ninh  (30/09/2023)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Những vấn đề môi trường cấp bách hiện nay: Thực trạng và giải pháp