Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh: Thực trạng và giải pháp
Với số lượng di sản đa dạng và phong phú, tỉnh Quảng Ninh có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế di sản. Đây chính là những “tài sản” vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa, góp phần xây dựng văn hóa con người Quảng Ninh; đồng thời, là một nguồn lực quan trọng cả về tinh thần và vật chất trong công cuộc xây dựng, phát triển và hội nhập quốc tế, đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững của tỉnh Quảng Ninh.
“Sản nghiệp văn hóa” - động lực tăng trưởng thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh
Tỉnh Quảng Ninh được ví như “Việt Nam thu nhỏ” - nơi hội tụ nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc, vùng, miền, kết tinh trong hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Với bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, cùng không gian, cảnh quan đặc sắc, Quảng Ninh lưu giữ trong mình một hệ thống di sản phong phú và độc đáo.
Về di sản văn hóa, Quảng Ninh có 637 di sản văn hóa vật thể (đình, chùa, đền, miếu, danh lam thắng cảnh…); 362 di sản văn hóa phi vật thể(1) (lễ hội, phong tục, tập quán, trò chơi dân gian...), trong đó, có 8 di tích quốc gia đặc biệt(2); 12 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia(3); Đặc biệt, di sản thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (trong đó có then nghi lễ người Tày ở huyện Bình Liêu) được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại từ năm 2019.
Các di sản lớn của tỉnh như Vịnh Hạ Long, Yên Tử, Bạch Đằng đều đã và đang được định hướng để trở thành những di sản thế giới liên vùng. Tiêu biểu, Vịnh Hạ Long 3 lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên và Di sản về địa chất của thế giới. Việc đẩy mạnh xây dựng hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử là Di sản thế giới cũng sẽ tiếp tục góp phần đưa Quảng Ninh trở thành địa danh nổi tiếng toàn cầu, mở ra cơ hội lớn trong giao lưu, hội nhập quốc tế, xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc.
Đại hội XIII của Đảng xác định phát triển văn hóa, con người Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc. Văn hóa được coi là “sức mạnh mềm” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, tỉnh Quảng Ninh được xác định bao gồm 6 giá trị cấu thành: Thiên nhiên tươi đẹp - văn hóa đặc sắc - xã hội văn minh - hành chính minh bạch - kinh tế phát triển - nhân dân hạnh phúc.
Nhằm khơi dậy và phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Quảng Ninh, truyền thống cách mạng, văn hóa, sự năng động và khát vọng đổi mới, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, vượt lên mạnh mẽ và bền vững của nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh, ngày 11-02-2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 80/QĐ-TTg, Phê duyệt Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, với mục tiêu tổng quát đến năm 2030, xây dựng, phát triển Quảng Ninh là một tỉnh tiêu biểu của cả nước về mọi mặt; tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc; một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện; trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; đô thị phát triển bền vững theo mô hình tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; là khu vực phòng thủ tỉnh vững chắc về quốc phòng - an ninh và phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế.
Về văn hóa: cần kết hợp chặt chẽ giữa bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, giá trị văn hóa các dân tộc; vận dụng cơ chế thị trường để chuyển hóa các tài nguyên văn hóa thành nguồn lực văn hóa, “vốn hóa” các giá trị văn hóa địa phương để hình thành nên các sản phẩm văn hóa đa dạng, độc đáo phục vụ du lịch - dịch vụ. Tập trung bảo tồn và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa của tỉnh, trong đó ưu tiên nguồn lực cho các di sản được UNESCO ghi danh, các di tích quốc gia đặc biệt, bảo vật quốc gia và di sản văn hóa phi vật thể thuộc Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Thường xuyên tu bổ, tôn tạo các di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia chống xuống cấp phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương. Từng bước phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, giải trí trên địa bàn tỉnh hướng tới xuất khẩu văn hóa góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững. Xây dựng Quảng Ninh trở thành trung tâm văn hóa nghệ thuật cấp vùng; điểm đến hấp dẫn hàng đầu về du lịch di sản văn hóa khu vực châu Á và thế giới được bình chọn hằng năm; thành phố Hạ Long trở thành thành viên của mạng lưới các thành phố sáng tạo trên thế giới (của UNESCO).
Như vậy, chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển tỉnh Quảng Ninh, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng bền vững dựa vào ba trụ cột: thiên nhiên, con người, văn hóa kết hợp với tận dụng xu thế hòa bình, hợp tác, hội nhập, cơ hội mới và công nghệ mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mang lại và tham gia sâu rộng, có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Trong đó, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển. Phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển kinh tế nhanh, bền vững của tỉnh Quảng Ninh.
Trong thời gian qua, tỉnh Quảng Ninh đã phát huy lợi thế về di sản văn hóa, xây dựng và phát triển di sản văn hóa bền vững, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể:
Đối với phát triển kinh tế: tổng thu nhập của du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2017-2022 từ 7.450 tỷ đồng lên 13.300 tỷ đồng, tốc độ tăng trung bình đạt 18,6%/năm đối với toàn tỉnh Quảng Ninh, trong đó trung bình đạt 18,7%/năm. Về chất lượng, có sự chuyển dịch về cơ cấu, giảm tỷ lệ doanh thu từ lưu trú và ăn uống, tăng tỷ lệ doanh thu từ vận chuyển, lữ hành và các dịch vụ bổ sung; nộp ngân sách cho ngân sách địa phương từ 670 tỷ đồng năm 2017 lên 1.400 tỷ đồng năm 2022(4). Như vậy, tốc độ tăng trưởng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Du lịch nói chung và phat huy giá trị di sản đã góp phần tăng thu nhập và đóng góp vào ngân sách địa phương của du lịch theo các năm thể hiện tính bền vững về tiêu chí này trong phát triển du lịch.
Đối với xã hội: Nghiên cứu mức độ tương quan giữa đặc điểm khách du lịch với tần số đi du lịch và dự định quay lại du lịch của khách cũng phụ thuộc vào từ địa bàn du lịch, giới tính, trình độ học vấn và nghề nghiệp của khách. Kết quả điều tra cho thấy: Khách du lịch tỉnh Quảng Ninh có xu hướng đến du lịch nhiều lần, số lần khách đến du lịch từ 2 lần trở lên chiếm tới 89,7% tổng số khách du lịch, trong đó chủ yếu khách du lịch 2 lần và 3 lần (tỷ lệ tương ứng 37,2% và 31,7%)(4).
Các điểm du lịch tại Quảng Ninh hầu hết đều thu hút khách quay lại du lịch lần 2 trở lên và hầu hết khách đều có ý định quay lại Quảng Ninh để tiếp tục khám phá. Hạ Long, Uông Bí, Vân Đồn, Cô Tô là những điểm thu hút khách du lịch đi nhiều lần và có ý định mong muốn quay lại du lịch.
Xét về giới tính, phần lớn cả khách nam và khách nữ đều đi du lịch ở đây từ 2 lần trở lên và có ý định quay trở lại du lịch. Tỷ lệ khách nam và khách nữ tương đối đồng đều trong số lần du lịch và ý định quay trở lại du lịch. Đáng lưu ý khách nam có số lần đi du lịch ở Quảng Ninh nhiều lần (3 lần trở lên) hoặc lần đầu nhiều hơn khách nữ.
Trình độ học vấn cũng có ảnh hưởng đến số lần đi du lịch của khách và dự định quay lại du lịch. Khách có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học có tỷ lệ so lần đi du lịch cao hơn các đối tượng khách khác, có lẽ bởi đối tượng này có nguồn thu nhập cao và ổn định hơn đối tượng khách có trình độ học vấn ở bậc THCS và THPT đối tượng khách có thu nhập ổn định, như: cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, nhân viên văn phòng và những người có, chủ động được thời gian thường đi du lịch nhiều lần ở Quảng Ninh.
Phần lớn khách dù có nghề nghiệp khác nhau cũng đều mong muốn quay lại du lịch ở Quảng Ninh. Kết quả này của phản ánh sức hút du lịch ở Quảng Ninh là rất lớn.
Đối với môi trường: sự tác động tích cực thể hiện ở chỗ, du lịch giúp đẩy mạnh công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, chất lượng môi trường ở một số khu vực được cải thiện. Cơ sở hạ tầng ở các khu vực có hoạt động du lịch được tăng cường đầu tư, một phần kinh phí được đầu tư chính nguồn lợi do du lịch mang lại. Sự tác động tiêu cực của hoạt động du lịch thể hiện ở việc xây dựng ồ ạt phá vỡ cảnh quan tự nhiên. Hoạt động du lịch phát triển gây sức ép lên tài nguyên môi trường. Thiếu điện sinh hoạt vào mùa du lịch đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Hiện tượng ô nhiễm tiếng ồn do sử dụng máy phát điện cá nhân cũng bắt đầu xuất hiện gây cảm giác khó chịu cho du khách.
Điều này thể hiện ở kết quả điều tra, khảo sát của Sở Du lịch Quảng Ninh tại địa bàn khảo sát với kết quả như sau: Phát triển du lịch thân thiện với môi trường (84,7%); Giảm thiểu chất thải, khuyến khích sử dụng các sản phẩm tái chế chất thải trong du lịch (82,0%); Tuyên truyền phổ biến cho người dân, du khách về biến đổi khí hậu và những tác động đến du lịch (tỷ lệ đồng ý 75,3%); Xây dựng hệ thống chính sách bảo vệ thiên nhiên, các điểm du lịch chặt chẽ, điều chỉnh các chính sách, chiến lược chưa phù hợp (70,7%); Tăng cường quản lý đối với khu điểm du lịch tự nhiên (70,0%); Khuyến khích tăng cường trồng cây ở điểm du lịch (67,3%), Học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới để phát triển du lịch trong điều kiện biến đổi khí hậu (64%); Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ sạch vào lĩnh vực du lịch (60,0%); Tăng cường sử dụng năng lượng thay thế (54,7%); Khuyến khích sử dụng tiết kiệm nước, năng lượng (53,3%). Với khách du lịch, tỷ lệ đồng tình với các giải pháp phát triển bền vững du lịch là khá cao, trong đó tỷ lệ đồng ý với giải pháp phát triển loại hình du lịch thân thiện với môi trường (74,5%); Giảm thiểu chất thải, khuyến khích sử dụng các sản phẩm tái chế chất thải trong du lịch (59,3%); Xây dựng hệ thống chính sách bảo vệ tài nguyên, các điểm du lịch chặt chẽ hơn, điều chỉnh các chính sách, chiến lược chưa phù hợp (55,9%)(5).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì hiện nay, công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của tỉnh Quảng Ninh vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Không ít các cấp, ngành và người dân vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác quy hoạch, quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa trong quá trình phát triển, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, một số địa phương của tỉnh chưa có sự điều tiết hài hòa giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, còn tình trạng quá coi trọng tăng trưởng kinh tế, dẫn đến nhiều vấn đề bất cập nảy sinh. Nhiều di tích không được bảo tồn một cách hợp lý. Còn sự mất cân đối, chênh lệch trong quá trình phát huy giá trị của từng di tích, di sản văn hóa. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản vẫn chưa được các ngành, các cấp có liên quan phối hợp chặt chẽ và hiệu quả, thậm chí ở một số nơi còn buông lỏng, khiến việc xâm phạm, lấn chiếm di tích, di sản còn diễn ra. Nguồn kinh phí cho tu bổ di tích còn thấp. Nguồn nhân lực quản lý di tích các cấp còn mỏng, thiếu kinh nghiệm, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Vì vậy, để duy trì “sức sống” cho các di sản văn hóa đang là vấn đề hệ trọng và cấp bách được đặt ra đối tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
Một số giải pháp
Để văn hóa, con người Quảng Ninh thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, là nguồn lực nội sinh, động lực quan trọng cho sự phát triển nhanh, bền vững của tỉnh, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội bền vững:
Thứ nhất, Quảng Ninh hướng tới khai thác giá trị văn hóa để thúc đẩy kinh tế - xã hội bền vững, bảo tồn di sản tạo động lực tăng trưởng dài hạn gắn với bảo vệ môi trường.
Nguồn lực văn hóa được xem là nguồn lực đặc biệt, là sức mạnh thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững đất nước. Một trong những mục tiêu quan trọng được Đảng ta xác định là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nguồn lực văn hóa - vốn văn hóa không đứng ngoài kinh tế, chính trị, xã hội trong quá trình phát triển đất nước. Văn hóa có sứ mệnh làm nền tảng, làm mục tiêu cho phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên, nguồn lực văn hóa trở thành nguồn lực đặc biệt, khơi dậy, thúc đẩy các nguồn lực khác, tạo sức mạnh tổng hợp trong phát triển bền vững đất nước. Nguồn lực sản phẩm văn hóa là nguồn lực được kết tinh bởi vốn tài nguyên thiên nhiên ban tặng, được vật thể hóa thành các sản phẩm vật chất chứa đựng những giá trị văn hóa phi vật thể, bao gồm di tích lịch sử, văn hóa, các danh lam thắng cảnh,... với các sản phẩm văn hóa sáng tạo của con người.
Văn hóa Quảng Ninh phong phú, giàu bản sắc, bởi có sự tổng hòa các phong tục, tập quán, lối sống, kho tàng tri thức dân gian, thực hành tín ngưỡng, kinh nghiệm lao động của 22 dân tộc, sinh sống theo cộng đồng dân cư phân bổ khắp địa bàn rộng lớn, có cả biển, đảo, núi rừng, biên giới,...; đồng thời, trải qua các thời kỳ văn hóa cổ, các triều đại phong kiến, sự hình thành và phát triển của ngành than và giai cấp thợ mỏ... Nguồn vốn, tài nguyên văn hóa đã hình thành nên đặc trưng con người Quảng Ninh với những phẩm chất tốt đẹp, qua các thế hệ luôn kiên cường trước thử thách của tự nhiên, dũng cảm bảo vệ vững chắc vùng biên cương, biển, đảo của Tổ quốc, sáng tạo trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Xác định vai trò quan trọng của di sản văn hóa đối với sự phát triển toàn diện, tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều giải pháp trong việc gìn giữ giá trị truyền thống, làm giàu thêm bản sắc văn hóa phù hợp với yêu cầu trong tình hình mới. Ngày 9-3-2018, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU, Về xây dựng và phát triển văn hóa con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Đặc biệt, ngày 30-10-2023, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TU, Về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững, với mục tiêu tổng quát là: “Phát triển con người Quảng Ninh toàn diện cả về nhân cách, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, tình yêu quê hương, đất nước với các đặc trưng “Bản lĩnh, Tự cường, Kỷ cương, Đoàn kết, Nghĩa tình, Hào sảng. Sáng tạo, Văn minh” phù hợp với xu thế thời đại, thích ứng với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng, phát triển nền văn hóa giàu bản sắc, gắn với thu hẹp nhanh khoảng cách giàu nghèo và chênh lệch vùng miền, trên cơ sở kết hợp hài hoà các giá trị đặc trưng của tỉnh Quảng Ninh “Thiên nhiên tươi đẹp, Văn hóa đặc sắc, Xã hội văn minh, Hành chính minh bạch, Kinh tế phát triển, Nhân dân hạnh phúc” để văn hóa, con người Quảng Ninh thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, nguồn lực và động lực cho phát triển nhanh, bền vững.
Nghị quyết chính là cơ sở, đặt ra nhiệm vụ, mục tiêu, đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị trong việc quan tâm, dành nguồn lực đầu tư, xây dựng và phát triển văn hóa toàn diện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ với những dấu ấn đặc sắc của Vùng Mỏ. Từ nghị quyết này, các ngành, địa phương trong toàn tỉnh đã có sự phối hợp, thống nhất hành động một cách quyết liệt, chặt chẽ, nhằm giữ gìn và phát huy bền vững giá trị truyền thống, đầu tư có trọng tâm để phát triển văn hóa trong thời kỳ hội nhập.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay, yếu tố văn hóa không còn chỉ là các giá trị tinh thần mà ngày càng trở thành một nguồn lực nội sinh có thể tạo ra những đột phá mạnh mẽ cho nền kinh tế.
Tỉnh Quảng Ninh đã nhận ra tầm quan trọng này và đang tập trung khai thác giá trị văn hóa để làm nền tảng phát triển bền vững. Việc xây dựng và phát huy giá trị văn hóa và con người Quảng Ninh không chỉ là trách nhiệm về mặt xã hội mà còn là chiến lược phát triển kinh tế lâu dài.
Học hỏi từ những mô hình thành công trên thế giới, Quảng Ninh đã đặt ra mục tiêu phát triển các sản phẩm văn hóa, như lễ hội truyền thống, các tour du lịch di sản kết hợp nghệ thuật hiện đại. Cùng với đó, tỉnh cũng thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa như nghệ thuật trình diễn, âm nhạc, và ẩm thực, nhằm tạo ra những trải nghiệm độc đáo cho du khách.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là tỉnh đã nhận thức sâu sắc rằng văn hóa không chỉ dừng lại ở việc bảo tồn di sản mà cần được hiện đại hóa để có thể "sống" cùng với thời đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách và người tiêu dùng.
Thông qua việc xây dựng các sản phẩm du lịch dựa trên nền tảng văn hóa bản địa, tỉnh Quảng Ninh có tiềm năng thu hút hàng triệu du khách quốc tế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Đồng thời, Quảng Ninh thúc đẩy tăng trưởng xanh vì sự phát triển bền vững. Nhờ nhận diện rõ những thách thức từ sớm, cùng với quyết tâm đổi mới, đột phá, sau hơn 10 năm nỗ lực chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”, Quảng Ninh thể hiện rõ quyết tâm “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng nóng”, phát triển luôn gắn liền giữa lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường. Năm 2023, Quảng Ninh có Chỉ số Xanh cấp tỉnh cao nhất cả nước với tổng điểm của 4 chỉ số thành phần là 26 điểm. Trong đó, chỉ số giảm thiểu ô nhiễm môi trường và tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đạt 7,41 điểm; chỉ số đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường tối thiểu đạt 6,18 điểm; chỉ số vai trò lãnh đạo của chính quyền tỉnh trong thúc đẩy thực hành xanh đạt 6,68 điểm; chính sách và dịch vụ hỗ trợ doanh ngiệp trong bảo vệ môi trường đạt 5,73 điểm. Đáng chú ý, 4/4 chỉ số thành phần đều tăng điểm so với năm 2022.
Vì vậy, bao tồn và phát huy di sản bền vững nói riêng, phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh là đòi hỏi bức thiết của tỉnh Quảng Ninh trong xu thế hội nhập quốc tế.
Thách thức của việc duy trì, phát triển du lịch nhưng không gây hại cho môi trường có thể được vượt qua thông qua việc phát triển các hình thức du lịch bền vững, như du lịch sinh thái và văn hóa. Phát triển du lịch bền vững trên nền tảng tăng trưởng xanh là yêu cầu xuyên suốt trong các chính sách, chiến lược, quy hoạch của Tỉnh. Theo đó, phải phát huy tối đa tiềm năng sẵn có, tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo; gắn phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc; quản lý, khai thác bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học. Phát triển hình thức du lịch bền vững và tăng cường giáo dục văn hóa cho du khách có thể giúp bảo vệ nguồn lực và giữ gìn bản sắc văn hóa của địa phương. Cơ hội để phát triển du lịch bền vững, như du lịch sinh thái và văn hóa, đang là một xu hướng quan trọng. Việc quảng bá và phát triển các hình thức du lịch này có thể tạo ra lợi ích lâu dài cho cả quần thể địa phương và du lịch. Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn kết hợp chặt chẽ với công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp và phát triển kinh tế biển. Thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác, đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế, tạo việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, nhất là ở các khu vực nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo; có đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Quảng Ninh.
Thứ hai, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức của các cấp ủy, chính quyền và người dân Quảng Ninh về vị trí, vai trò của di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, về quyền và nghĩa vụ đối với các di sản văn hóa.
Thực tiễn đã chứng minh không ai có thể giữ gìn di sản văn hóa tốt hơn, hiệu quả hơn chính chủ nhân của các loại hình di sản văn hóa ấy. di sản văn hóa không thể đứng ngoài sinh hoạt của cộng đồng dân cư, hoặc đứng ngoài không gian văn hóa của nó. Ðể có thể duy trì “sức sống” cho di sản văn hóa, không chỉ phải bảo tồn như nó vốn có, phải để cho các di sản văn hóa được "sống", được tôn vinh, được người dân thừa nhận ngay trong chính đời sống của cộng đồng, mà trước hết, cần phải tăng cường giáo dục thẩm mỹ, giáo dục sự hiểu biết các tri thức văn hóa nói chung và di sản văn hóa dân tộc nói riêng, từ đó khơi dậy và nhân lên niềm đam mê, ý thức bảo vệ di sản trong mọi người dân, nhất là thế hệ trẻ.
Thứ ba, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả quản lý di sản văn hóa, gắn kết hài hòa giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh.
Thực hiện phân cấp quản lý di sản văn hóa để nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Chú trọng hơn nữa yếu tố bảo tồn di sản văn hóa trong công tác quy hoạch của địa phương, tiếp cận vấn đề một cách tổng thể, liên ngành để đề xuất các giải pháp thích hợp, tạo dựng cảnh quan phù hợp cho khu vực di sản văn hóa, góp phần làm tăng giá trị của di sản văn hóa và tạo điểm nhấn, sức hấp dẫn cho các địa phương có di sản trên địa bàn tỉnh.
Để bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa thì ba yếu tố: kinh phí, chính sách, chuyên gia luôn là ba trụ cột quan trọng và cần thiết. Chính vì vậy, bên cạnh các chính sách của Nhà nước, tỉnh Quảng Ninh cần tiếp tục quan tâm, có cơ chế, chính sách, giải pháp cụ thể, đồng bộ nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; có những cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân, các bảo tàng ngoài công lập, các nhà sưu tập tư nhân vào sự nghiệp quan trọng này. Bên cạnh đó cần có cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, khuyến khích, động viên hơn nữa các nghệ nhân trong việc gìn giữ, truyền dạy, phát huy giá trị di sản văn hóa… Cần tháo gỡ những điểm nghẽn về cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy di sản là một trong những vấn đề quan trọng, để di sản văn hóa thực sự trở thành nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, tập trung để khảo sát, nhận diện, đánh giá và công nhận các di tích, di sản, loại hình văn hóa. Điều này rất quan trọng, vì nếu không tập trung để nhận diện, phát hiện, bảo tồn và công nhận thì chúng ta sẽ không biết và không có cơ sở để bảo tồn, lâu dần các di sản sẽ bị mai một, bị lãng quên. Ba việc phải làm, là phải nhận diện, kiểm đếm và đầu tư để bảo tồn, trong đó cố gắng chú ý phát hiện nét riêng, đặc sắc của các đồng bào, nếu không các di sản không chỉ có nguy cơ bị mai một còn có thể bị biến mất mãi mãi. Vì vậy, tỉnh Quảng Ninh cần xây dựng và ban hành Đề án quy hoạch hệ thống di tích định hướng đến năm 2030, tầm nhìn 2050.
Thứ năm, xây dựng kinh tế di sản để chuyển hóa thành động lực tăng trưởng của tỉnh Quảng Ninh.
Kinh tế di sản luôn hướng đến mục tiêu kép là phát triển kinh tế và bảo tồn giá trị di sản văn hóa. Và cả hai mục tiêu này đều quan trọng như nhau. Nếu bỏ đi một mục tiêu nào trong số hai mục tiêu này đều không ảnh hưởng tốt đến di sản cũng như ý nghĩa tồn tại của nó. Di sản văn hóa do một cộng đồng tạo nên và cũng được chính họ gìn giữ. Và mỗi di sản luôn gắn với một cộng đồng chủ thể nhất định qua các giá trị của nó. Di sản văn hóa luôn hiện hữu các giá trị về thẩm mỹ, lịch sử, cố kết cộng đồng, lợi ích... Nhưng ngày nay, di sản văn hóa không chỉ có giá trị với cộng đồng chủ thể mà còn có nhiều giá trị với các cộng đồng khác từ chiêm ngưỡng, hưởng thụ đến khai thác lợi ích. Vậy nên, càng ngày, sự tham gia và tác động của các nhân tố ngoài cộng đồng chủ thể đến di sản càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Mục tiêu bảo tồn di sản thường được cộng đồng chủ thể coi trọng nhất bởi nó là sản phẩm của cộng đồng đó và có nhiều giá trị nhất với cộng đồng đó. Động lực của kinh tế di sản, xét cho cùng là con người. Kinh tế di sản theo đuổi mục tiêu phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa. Mà kinh tế hay văn hóa, nói chung là phát triển đều hướng đến động lực và cũng là mục tiêu cuối dùng: con người. Con người ở đây được hiểu là con người cụ thể, là chủ thể của các di tích văn hóa và những bên liên quan. Vì thế, phát triển kinh tế di sản cần đặt con người ở vị trí trung tâm, đặc biệt là những người chủ thể của di sản. Bởi chỉ có như vậy mới đảm bảo được sự hài hòa về lợi ích trong quá trình phát triển, và đạt được mục tiêu kép về phát triển kinh tế và bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa.
Thứ sáu, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các tổ chức và cá nhân trong xã hội, trong đó, Nhà nước đóng vai trò tạo ra khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách; còn nhân dân đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ, gìn giữ, lưu truyền và phát huy giá trị.
Để thu hút tối đa các nguồn lực xã hội (cá nhân, tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp) tự nguyện phát huy sáng kiến, ý tưởng và đóng góp công sức, kinh phí cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, cần có những chính sách ưu tiên, tạo điều kiện đặc biệt cho họ như chính sách về thuế, chính sách về đất đai… Đặc biệt, cần phải mạnh dạn thể nghiệm hình thức “hợp tác công - tư” trong bảo tồn di tích, trong đó có sự tham gia của cơ quan quản lý, các nhà khoa học, cộng đồng cư dân địa phương và các doanh nghiệp kinh doanh du lịch có liên quan tới di sản văn hóa.
Bảo tồn di sản văn hóa là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, nhưng pháp luật và chính sách bao giờ cũng là "bà đỡ', kiến tạo cơ hội và định hướng cho các hoạt động đạt được chất lượng và hiệu quả cao nhất.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh.
Xây dựng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho nhân lực hiện đang đảm nhiệm công việc này tại các cấp, nhằm nâng cao trình độ về chuyên môn, cập nhật tiếp thu kiến thức mới áp dụng vào việc quản lý di sản văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Chú trọng xây dựng đội ngũ chuyên gia, nhà nghiên cứu, các thợ lành nghề tham gia các hoạt động bảo quản, tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử, văn hóa. Định kỳ tổ chức tập huấn, cập nhật kiến thức pháp luật về di sản văn hóa cho cán bộ cơ sở, các ban quản lý di tích cũng như những người trực tiếp tham gia trông coi, bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa.
Thứ tám, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ trong quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của tỉnh Quảng Ninh.
Thông qua sự gắn kết giữa công nghệ số với phát triển du lịch thông minh để đưa các nội dung quảng bá hình ảnh, phát huy giá trị di sản lên các nền tảng công nghệ, qua đó quảng bá và phát huy giá trị di sản văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đưa di sản đến gần hơn với công chúng. Xây dựng ngân hàng dữ liệu khoa học về các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; qua đó tích hợp mọi nguồn thông tin có liên quan tới di sản văn hóa và hoạt động bảo tồn di sản văn hóa của tỉnh Quảng Ninh, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, thu hẹp khoảng cách và sự chênh lệch giữa các vùng, miền của tỉnh, góp phần xây dựng văn hóa, con người Quảng Ninh thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực và nguồn lực cho phát triển nhanh, bền vững./.
----------------------
(1) 362 di sản văn hóa phi vật thể gồm 7 loại hình gồm: 76 lễ hội dân gian truyền thống, 25 di sản, nghề thủ công truyền thống, 22 di sản nghệ thuật trình diễn dân gian, 14 di sản ngữ văn dân gian, 168 di sản tập quán xã hội, 7 di sản tiếng nói chữ viết, 50 di sản tri thức dân gian.
(2) Danh lam Thắng cảnh Vịnh Hạ Long; Khu Di tích Lịch sử và Danh lam Thắng cảnh Yên Tử; Di tích Lịch sử Bạch Đằng; Khu Di tích Nhà Trần tại Đông Triều; Di tích Lịch sử Đền Cửa Ông; hu Lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô; Di tích lịch sử quần thể Thương cảng Vân Đồn; Di tích kiến trúc - nghệ thuật đình Trà Cổ.
(3) Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái; Hát nhà tơ (hát cửa đình); Lễ hội đền Cửa Ông; Lễ hội Tiên Công; Lễ hội đình Trà Cổ; Lễ hội đình Quan Lạn; Lễ hội Bạch Đằng; Nghệ thuật trình diễn dân gian hát soóng cọ của người Sán Chỉ; Nghệ thuật trình diễn dân gian hát soọng cô của người Sán Dìu; Lễ hội đình Đầm Hà (thị trấn Đầm Hà, huyện Đầm Hà); Lễ hội đình Vạn Ninh (xã Vạn Ninh, Thành phố Móng Cái); Lễ hội Xuống đồng (phường Phong Cốc, Thị xã Quảng Yên).
(4) Sở Du lịch Quảng Ninh (2022), Báo cáo tổng kết 5 năm của ngành Du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2017 - 2022.
(5) Sở Du lịch Quảng Ninh (2023), Báo cáo kết quả công tác năm 2023 và phương hướng nhiêm vụ năm 2024 của ngành Du lịch Quảng Ninh.
Chính sách phát triển công nghiệp văn hóa nhằm bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Ninh  (05/12/2024)
Quảng Ninh phát triển nguồn nhân lực số, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững  (04/12/2024)
- Một số vấn đề về chuyển đổi nội dung số trong các tạp chí của Việt Nam hiện nay
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp: Nền tảng góp phần phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Pháp
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay