Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số lần thứ II năm 2020
TCCS - Ngày 4-12-2020, Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số lần thứ II năm 2020 chính thức khai mạc tại Thủ đô Hà Nội với chủ đề: “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau, phát huy nội lực cùng phát triển với đất nước”. Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự và thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước phát biểu chỉ đạo Đại hội.
Dự Đại hội có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng; cùng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước; đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành, địa phương và gần 1.600 đại biểu chính thức tiêu biểu đại diện cho 54 dân tộc anh em trên mọi miền đất nước.
Phát biểu khai mạc Đại hội, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo Đại hội Trương Hòa Bình khẳng định, Đại hội là sự kiện có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc, biểu tượng đặc biệt sinh động về sự đoàn kết các dân tộc “như cây một cội, như con một nhà”. Thay mặt Đoàn Chủ tịch, Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ chào mừng gần 1.600 đại biểu, đại diện cho hơn 14,2 triệu đồng bào dân tộc thiểu số trên cả nước về dự sự kiện có ý nghĩa quan trọng này.
Thực hiện Chỉ thị số 35/CT-TW của Ban Bí thư về Đại hội các dân tộc thiểu số và Quyết định số 1062/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số cấp huyện, cấp tỉnh lần thứ III năm 2019 và Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II năm 2020, trong thời gian qua, các cấp ủy đảng, chính quyền đã quan tâm chỉ đạo; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã tạo điều kiện phối hợp tổ chức thành công đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số ở 363 huyện, 50 tỉnh, thành phố trong cả nước, tạo nên không khí hồ hởi, phấn khởi, góp phần vào thành công của đại hội đảng bộ các cấp, vững tin hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Đại hội cấp tỉnh và các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương đã chọn cử được 1.592 đại biểu ưu tú về dự Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II, đủ đại diện của cả 54 dân tộc anh em, đại diện lãnh đạo các cấp, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ, tướng lĩnh quân đội, công an, Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động, doanh nhân, nghệ nhân, người có uy tín..., thể hiện tinh thần đại đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, đóng góp vào thành công của Đại hội.
Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình nhấn mạnh, Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II là diễn đàn giao lưu, trao đổi, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số, tạo sự đồng thuận và niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ cho rằng, niềm tin đó được nhân lên gấp bội khi mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc; Quốc hội đã ban hành nghị quyết phê duyệt đề án và Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
Trình bày dự thảo báo cáo chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến nêu rõ, sau 10 năm thực hiện Quyết tâm thư của Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số lần thứ nhất, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã đạt được những kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực. Sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả nổi bật, nhất là ở địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh và bền vững hơn. Bên cạnh đó, sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề; y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân; văn hóa, thông tin, truyền thông tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển về cả số lượng và chất lượng, góp phần nâng cao mặt bằng dân trí và chất lượng nguồn nhân lực. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát triển sâu rộng, không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh, trật tự. Niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước không ngừng được củng cố và tăng cường, đồng thuận xã hội được nâng lên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng vững chắc hơn.
Bên cạnh những kết quả trên, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cho rằng, quá trình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc và thực hiện Quyết tâm thư của Đại hội vẫn còn một số hạn chế, yếu kém, như kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là ở khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung chưa được như mong muốn. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo cao; hủ tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan còn diễn ra ở một số địa phương...
Về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp công tác dân tộc giai đoạn 2021 - 2030, Bộ trưởng Đỗ Văn Chiến cho biết, phấn đấu mức thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số đến năm 2025 tăng trên 2 lần so với năm 2020; đến năm 2030 bằng 1/2 bình quân chung của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số mỗi năm giảm trên 3%; đến năm 2030 giảm hộ nghèo xuống dưới 10% (theo chuẩn nghèo đa chiều hiện nay). Đến năm 2025, hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư; sắp xếp, bố trí ổn định 90% số hộ di cư không theo quy hoạch…
Phát biểu tại Đại hội, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ vui mừng khi tham dự Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số toàn quốc lần thứ II và khẳng định, đây là sự kiện có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc, một biểu tượng đặc biệt về khối đại đoàn kết các dân tộc, như “54 cánh sen tạo nên một bông sen Việt Nam” rực rỡ, ngát hương.
Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh, nhìn lại chặng đường 10 năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn, nhưng Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Sự phát triển của quốc gia đến từ thành công của các địa phương. Bên cạnh các địa phương phát triển luôn duy trì sức tăng trưởng cao, các tỉnh khó khăn - nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc, nhiều tỉnh miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống - vẫn luôn nỗ lực để đạt tăng trưởng khá, với ý chí, quyết tâm không để địa phương mình bị bỏ lại phía sau, để nhân dân các dân tộc ngày càng có cuộc sống ấm no, tốt đẹp hơn.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ưu tiên bố trí nguồn lực để thực hiện hỗ trợ về giáo dục, y tế, phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, chiếm 71,4% tổng chi cho các nhiệm vụ này của cả nước, chiếm 80% tổng chi giảm nghèo của vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Nguồn lực Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững được ưu tiên bố trí thực hiện cho địa bàn dân tộc, miền núi, chiếm 70% tổng vốn Chương trình qua các giai đoạn. Nguồn vốn cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội chiếm 52,5% tổng dư nợ cả nước trên địa bàn miền núi, dân tộc.
“Với những quyết tâm và nguồn lực tập trung đầu tư mạnh mẽ như vậy, chúng ta vui mừng nhận thấy, đến nay, 100% các xã đã có đường ô tô đến trung tâm; 99% trung tâm xã và 80% thôn có điện; 65% xã có hệ thống thuỷ lợi nhỏ đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống; 80% thôn có đường cho xe cơ giới; trên 50% xã có trạm y tế đạt chuẩn, 100% đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo có bảo hiểm y tế miễn phí”, Thủ tướng cho biết.
Bên cạnh đó, các giá trị truyền thống, văn hóa tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm bảo tồn, phát huy, không chỉ trở thành một tài sản tinh thần cho thế hệ sau mà còn là tài nguyên mới cho sự phát triển, nhất là du lịch… Theo đánh giá của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, nhìn một cách tổng quát, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa bao giờ được khởi sắc như ngày nay.
Song song với những thành tựu to lớn, Thủ tướng cũng nêu rõ còn nhiều hạn chế trong thực hiện công tác dân tộc. Theo đó, Nhà nước đã đầu tư đáng kể vào kết cấu hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu, trong khi ở nhiều nơi, các dự án đầu tư vẫn chưa mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội mong muốn. Kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung chuyển biến chậm.
So với sự phát triển của cả nước và ở từng địa phương, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, nguy cơ tái nghèo còn cao, khoảng cách thu nhập so với cả nước ngày càng giãn cách. Kỹ năng lao động của người dân tộc thiểu số còn thấp, khiến cho cơ hội việc làm hạn chế, thu nhập chậm được cải thiện. Hiện tượng di cư tự do, vấn nạn tàng trữ, buôn bán, sử dụng chất ma túy ở một số thôn bản còn diễn ra phức tạp; tình hình an ninh, trật tự ở các tuyến biên giới, cửa khẩu có nhiều thách thức…
Khẳng định cộng đồng các dân tộc thiểu số là một bộ phận không thể tách rời và là máu thịt của dân tộc Việt Nam, “no đói có nhau, sướng khổ cùng nhau”; đầu tư phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là đầu tư phát triển bền vững đất nước, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; là yếu tố có tính nền tảng để bảo đảm đại đoàn kết toàn dân tộc, Thủ tướng đề nghị các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị từ Trung ương đến cơ sở cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung trong thời gian tới.
Bên cạnh việc nỗ lực thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước, Thủ tướng nhấn mạnh: “Tôi mong muốn đồng bào dân tộc thiểu số dù khó khăn, vất vả đến đâu cũng phải ưu tiên thời gian và tiền của, tạo mọi điều kiện để cho con em chúng ta được đến trường, được vui chơi, được học hành đến nơi, đến chốn. Chỉ có giáo dục mới là con đường duy nhất đưa bản làng, quê hương, đất nước chúng ta phát triển giàu mạnh. Trong tương lai, ngày mai tươi sáng phụ thuộc vào những gì chúng ta chuẩn bị trong ngày hôm nay. Chúng ta hãy cùng vun đắp khát vọng vượt khó vươn lên, phấn đấu làm giàu chính đáng, ngay trên mảnh đất quê hương”.
Cùng với đó, Thủ tướng cho rằng, việc xây dựng, vun đắp để tinh thần đại đoàn kết các dân tộc mãi trường tồn chính là thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng phải đoàn kết hơn nữa”. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc Kỳ vọng gần 1.600 đại biểu ưu tú của 54 dân tộc anh em hội tụ về Đại hội lần này sẽ lan tỏa tinh thần đại đoàn kết các dân tộc lên tầm cao mới; truyền cảm hứng, kết nối đồng bào các dân tộc thiểu số cùng với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đồng lòng chung sức, hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phát triển cường thịnh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu. “Cơ đồ đất nước, vinh quang Tổ quốc đời đời thuộc về cộng đồng các dân tộc Việt Nam ta”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Nhân dịp này, Ủy ban Dân tộc vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất vì những thành tích xuất sắc trong công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã trao Huân chương Lao động hạng Nhất tặng Ủy ban Dân tộc./.
Trung Duy (tổng hợp)
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch nước Lê Đức Anh  (02/12/2020)
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Thống nhất: Kinh nghiệm và bài học cho hôm nay  (30/11/2020)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm