Nhà văn Tô Hoài - Người hóm lẹm bậc nhất văn đàn Việt
Nhà văn Tô Hoài có tên khai sinh là Nguyễn Sen. Ông sinh ngày 07-9-1920 tại xã Kim An, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (trước đây). Tuổi thơ ông sống ở quê ngoại gắn liền với con sông Tô Lịch ở làng Nghĩa Đô, thuộc huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây, nên ông lấy bút danh là Tô Hoài. Đó là tên ghép giữa Tô Lịch và Hoài Đức. Ngoài ra, ông còn có nhiều bút danh khác như: Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Vũ Đột Kích, Hồng Hoa, Phạm Hòa. Ông bước lên văn đàn Việt Nam từ cuối những năm 30 của thế kỷ XX, đến nay đã hơn 80 năm cầm bút. Ông đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật, đợt I, năm 1996, cho cụm tác phẩm: Dế mèn phiêu lưu ký, Truyện Tây Bắc, Vợ chồng A Phủ, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ,...
Về sức viết, ông tâm sự: Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước Cách mạng Tháng Tám, năm 1945 mà tôi viết như chạy thi được năm truyện dài, truyện vừa, ba tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế mèn thì mấy chục truyện, cái in, cái chưa in, vương vãi lung tung tôi không nhớ hết. Cũng chẳng có gì lạ. Viết để kiếm miếng sống lúc ấy tất phải cuốc khỏe như vậy đấy.
Đặc biệt nhà văn Tô Hoài có biệt tài quan sát tập tính các loài vật hơn bất cứ nhà văn Việt Nam nào từ trước tới nay. Ông mô tả loài chuột gồm đủ mặt từ chuột nhắt, chuột cống, đến chuột cộc, chuột bạch, chuột xù,... Tất cả bọn chúng đều ngơ ngác nhìn quanh quẩn. Như là họ hít phải cái không khí lạ. Như là họ chẳng quen bò giữa nơi khoáng đãng. Và họ lại nối đuôi nhau, tha thẩn, từ từ bò vào, cũng như lúc bò ra.
Ông viết giản dị đến mức tự nhiên, như là hít thở khí giời, cơm ăn, nước uống. Có lẽ trời đã phú cho ông một bộ óc quan sát tinh tế, một con mắt tinh đời. Từng có người nhận xét nhà văn Tô Hoài là người hóm hỉnh. Tôi nghĩ, như vậy đúng nhưng chưa đủ, mà phải là một nhà văn hóm lẹm. Bởi hóm hỉnh là một từ láy, chỉ có một nghĩa khá rõ ràng dùng để chỉ một người có khiếu hài hước, còn hóm lẹm là cụm từ ghép không cố định với hai từ có hai nghĩa khu biệt là hóm và lẹm. Từ lẹm dùng để chỉ sự sắc, nhưng mà sắc ngọt của một vật dụng nào đấy như dao, cuốc, xẻng, rìu, đục, cưa,... Về nghĩa bóng, cụm từ hóm lẹm được dùng để chỉ một người vừa có khiếu hài hước, vừa sắc xảo nhưng rất ngọt ngào như nhà văn Tô Hoài. Ông chỉ cần viết ra những cái ông quan sát thấy, như không cần làm văn chương chút nào, không cần hư cấu, thêm mắm thêm muối gì cũng đã là văn rồi, một thứ văn vừa hài hước, sắc xảo và sâu cay, nhưng vẫn thân thương, gần gũi với đời sống thực diễn ra hằng ngày.
Chẳng hạn như chú Dế Mèn, Dế Trũi chơi với nhau như anh em kết nghĩa kiểu Lưu - Quan - Trương trong truyện Tam Quốc. Họ sẵn sàng quên mình vì bạn, vì nghĩa lớn. Còn chú Xiến Tóc trầm lặng, nhưng tính tình thì sáng nắng chiều mưa, yêu đời đấy, mà cũng chán đời ngay. Rồi đến chị Cào Cào ồn ào và duyên dáng luôn thích khoe bộ cánh thời trang. Bọ Ngựa kiêu căng, ngạo mạn, lúc nào cũng nhảy tanh tách, đứng ngồi không yên. Cóc huênh hoang ta đây và sẵn sàng hạ gục bất cứ đối thủ nào bằng những mũi tên thuốc độc cất giữ ở da và ở gan nó. Ếch thông thái giả. Chim Chả Non đích thị là một tay công tử bột, chỉ được cái mẽ bên ngoài, còn đầu lại rỗng tuếch, chẳng làm nên tích sự gì,...
Ông mô tả về các con vật thì không ai có thể viết hay hơn. Đây là chú mèo mướp lừ đừ nghiêm nghị tựa một thầy dòng, trên mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách quý phái và trưởng giả. Lúc nào cũng nghĩ ngợi như sắp mưu toan một việc gì ghê gớm lắm. Còn cậu gà trống gi bé nhỏ sống côi cút một thân, một mình khi còn trẻ nhỏ. Ấy vậy mà lớn lên lại có bộ mặt khinh khỉnh ta đây. Đặc biệt là tính đa tình có tật mê gái, như cái tính chung của loài gà - cả của loài người - khi mới lớn lên. Với hạng gà và người này thì gã sẵn sàng bỏ nhà đi theo gái. Rồi lại bỏ người tình cũ ngay để lần mò đi tìm một vài ái tình khác. Cái anh chàng gà chọi thì ôi thôi nhất sinh chỉ có một nghề đi đánh lẫn nhau cho người ta xem và như lúc nào cũng chỉ ngứa ngáy chân tay. Là một anh hùng hảo hán, nhưng chàng chọi ta chẳng thiết gì đến con cái, trong đầu chỉ đem những ý tình ma chuột, hay thích đi ve gái. Oái oăm là khi gặp một cuộc bể dâu, họ nhà gà chết dần, chết mòn, chàng gà chọi dù anh hùng, lẫm liệt nhưng rồi cũng ngoẻo, chỉ để lại một mình chị mái già, ra lại vào, ngẩn ngơ.
Thảm hại nhất là đôi vợ chồng gà gi đá tựa vợ chồng quê mới rủ nhau lên tỉnh. Họ lờ khờ, ngẩn ngơ, xấu xí - nghĩa là đặc nhà quê. Chúng cần mẫn xây tổ ấm như những người nông dân chưa ra phố bao giờ. Được cái chúng sống với nhau khá hạnh phúc, bình lặng, chịu khó, ít ồn ã, cứ thế mà chờ cho đến ngày sinh con đẻ cháu lần lữa qua năm tháng. Cuộc sống của gia đình gi đá có vẻ như bình lặng lắm. Đùng một cái, Tết đến, tiếng pháo nổ đón năm mới trở thành tai họa với họ nhà gà, tiếng pháo kinh khủng nổ vang động trong cây, cả nhà cuống cuồng bay đi. Thậm chí người ta còn tóm cổ chú trống gi choai để làm thịt đặt lên bàn thờ cúng tổ tiên, hay bày vào mâm đem ra giời cúng thiên la địa võng, rồi xem tướng chân, tấm tắc khen chú gi đá này năm nay đem đến cho gia chủ nhiều điều may mắn lắm,...
Còn Mụ ngan già vốn sẵn cái tính ngu tối, chậm chạp đến mức những thân nhân của mình như chồng con, em út gặp nạn có khi bị chết bất đắc kỳ tử vì dịch cúm gia cầm, mụ vẫn coi như không hề có chuyện gì xảy ra. Kể cả khi bị đá, bị đuổi đánh, bị bỏ tù thì họ mụ vẫn không hiểu chi. Hơn thế nữa khi chồng mụ bị làm thịt, mụ vẫn thản nhiên coi như đấy là chồng người khác. Mụ ngan chỉ nhớ rõ nhất một điều là khi có hạt ngô đo đỏ, hạt thóc vàng vàng, tàu lá xanh xanh thì xô đến mà khởi cái sự ăn cho đầy diều.
Hóm lẹm đến thế này thì không biết đây là cuộc sống của loài vật hay của loài người, nhưng chắc chắn, dù là loài nào vẫn khiến người đọc cảm thấy vừa ngậm ngùi, xót xa, vừa buâng khuâng cho phận kiếp làm CON (vật/người) (?)
Sự hóm lẹm của nhà văn Tô Hoài không chỉ thể hiện ở việc miêu tả dáng vẻ bên ngoài, tập tính của những con vật đã từng gắn bó với cuộc đời ông từ tuổi ấu thơ, như một sự hóm hỉnh ở những người có khiếu hài hước, mà còn thể hiện rất rõ ở cách đánh giá, nhận định về con người, sự việc và tác phẩm văn chương của đồng nghiệp. Có ý kiến đâu đó cho rằng nhà văn Tô Hoài không có tư tưởng. Một cây đại thụ của nền văn chương Việt Nam hiện đại mà không có tư tưởng thì vô lý quá!.
Theo tôi, quan sát kỹ thấy hầu hết các tác phẩm của nhà văn Tô Hoài đều có chung một đặc tính nổi trội là viết rất tự nhiên về những cái đời thường, mà ông quan sát thấy, bằng một lối diễn đạt nôm na và dân dã, đến mức người đọc rất khó nhận biết ông định nói gì, nên nhầm tưởng rằng ông không có tư tưởng, chỉ nói tếu táo cho vui. Nhưng nếu xâu chuỗi lại tất cả những điều ông nói thì mới thấy ông giấu tư tưởng vào những chuyện đời thường, khá đơn giản và rất tinh quái. Điều này thể hiện rõ nhất ở Dế mèn phiêu lưu ký, Chiều chiều, Cát bụi chân ai, Ba người khác, Giấc mơ ông thợ dìu... Còn những truyện như: Truyện Tây Bắc, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Kim Đồng, Vừ A Dính, Miền Tây đều là chuyện kể về những người anh hùng, hơn là tác phẩm văn chương thực thụ. Nếu như không có những đoạn miêu tả về phong cảnh núi rừng Tây Bắc, hay những phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số thì đích thị đấy chỉ là chuyện người tốt, việc tốt mà thôi.
Chỉ có những người hiểu đời, hiểu người và lọc lõi về văn nghiệp như Tô Hoài mới có thể đưa ra những nhận định sát thực đến như vậy. Tô Hoài có thói quen nhận định về một ai hay một tác phẩm nào đấy mà không cần dẫn chứng. Nhưng người nghe phải tâm phục khẩu phục vì sự tinh tế và sắc xảo của ông.
Khi nhận định về Nhân văn - Giai phẩm, ông cho rằng đây là một vụ án chính trị vì có dính líu tới một số nhà văn, khiến nhiều người nhầm tưởng đây là một vụ án văn chương. Điều này vô hình dung tiếp tay cho các thế lực thù địch với chế độ và Nhà nước ta cả ở trong và ngoài nước lớn tiếng đòi tự do cho sáng tác văn chương. Theo nhà văn Tô Hoài thì vụ Nhân văn - Giai phẩm: thực chất là một vụ án chính trị, nhưng vì quàng vào một số nhà văn nên người ta cứ tưởng là một vụ án văn chương. Nhân sai lầm của cải cách ruộng đất và ta chuẩn bị cải tạo tư sản ở Hà Nội, hai thằng Tây, một là Tổng giám mục ở nhà thờ Hà Nội tên là Dudley, hai là tay tuỳ viên văn hoá của Sứ quán Pháp tên là Durand Fischer, bèn xúi giục mấy ông đảng xã hội… đòi ngang quyền với đảng Lao động. Fischer có liên hệ với Nguyễn Hữu Đang, Thuỵ An, Minh Đức (Trần Thiếu Bảo). Lúc này tư nhân ra báo không phải xin phép. Ta bắt ba người có dính đến Pháp là Đang, An và Bảo. Còn hai thằng Tây thì ra lệnh trục xuất khỏi Việt Nam sau một tuần lễ... Bây giờ sửa sai thì cứ lặng lẽ kết nạp lại vào Hội nhà văn và tặng giải thưởng Nhà nước cho mấy ông Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán,...
Rõ ràng đây là những nhận định tinh tế, sắc xảo và trung thực của người trong cuộc về một vấn đề thuộc lịch sử văn chương nước nhà. Ngay cả những người cùng thời với ông cũng chưa chắc hiểu được vấn đề ngọn ngành đến như vậy. Những tưởng một người lúc nào cũng lơ mơ như nhà văn Tô Hoài thì không mấy bận tâm đến chuyện chính trị. Nào ngờ dưới cặp mắt hấp háy kia, cái gì ông cũng biết, biết một cách thấu đáo, đến đầu đến đũa hẳn hoi, chẳng hề lơ mơ chút nào. Có thể nói, Tô Hoài là người luôn nói không với sự biết nửa vời. Bởi thế văn ông thường kể lể có vẻ như dây cà ra dây muống, dài dòng văn tự, vòng vo Tam quốc, nhưng đấy vừa là thuộc tính, bản chất của con người cá nhân ông, vừa là đặc trưng phong cách văn chương Tô Hoài. Có người khẳng định: Tô Hoài là một pho từ điển sống, trong làng văn chương Việt, như vậy, kể ra cũng không mấy người được như ông./.
Nhà văn Tô Hoài - người ra đi, chữ mãi còn ở lại  (17/07/2014)
Khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức ở nông thôn: Trường hợp của nông hộ nuôi tôm ở tỉnh Trà Vinh  (17/07/2014)
Khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức ở nông thôn: Trường hợp của nông hộ nuôi tôm ở tỉnh Trà Vinh  (17/07/2014)
Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954: một thắng lợi trên con đường cứu nước của nhân dân ta  (17/07/2014)
Việt Nam yêu cầu Trung Quốc không đưa giàn khoan trở lại  (17/07/2014)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển