TCCSĐT - Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên về an ninh hạt nhân được tổ chức ở Mỹ, tiếp đến là Hội nghị giải trừ vũ khí hạt nhân được tổ chức ở I-ran trong những ngày vừa qua là những bước đi tích cực nhằm hướng tới một thế giới phi hạt nhân. Tuy nhiên, từ chỗ cam kết đồng thuận tiến tới tìm kiếm một cơ chế có hiệu lực để đảm bảo an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân còn là một bước dài, rất khó khăn vì nhiều lý do.

Những kết quả tích cực

Trong 2 ngày 13 và 14-4-2010, tại Oa-sinh-tơn, thủ đô nước Mỹ, đã diễn ra Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên về an ninh hạt nhân, quy tụ các cường quốc hạt nhân hàng đầu thế giới gồm Mỹ, Nga, Pháp, Anh và Trung Quốc, và những quốc gia mới tham gia “câu lạc bộ hạt nhân” từ hơn 10 năm nay là Ấn Độ và Pa-ki-txtan. I-xra-en được mời tham dự với tư cách là quốc gia được coi là đã sở hữu vũ khí hạt nhân. Ba nước này đều không tham gia Hiệp ước cấm phổ biến hạt nhân (NPT) có hiệu lực từ năm 1970 và đã được gần 170 quốc gia ký kết. Ngoài ra, tham dự Hội nghị còn nhiều quốc gia đang và sẽ phát triển hạt nhân vì mục đích hòa bình. Tiếp sau hội nghị này, trong 2 ngày 17 và 18-4-2010, tại Tê-hê-ran, thủ đô I-ran, diễn ra Hội nghị quốc tế về giải trừ vũ khí hạt nhân với sự tham dự của đại diện hơn 50 quốc gia trên thế giới, trong đó có 10 nước cử đại biểu ở cấp Bộ trưởng ngoại giao.

Thành công lớn nhất của Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên về an ninh hạt nhân ở Mỹ là các nước và tổ chức quốc tế đạt được thống nhất nhận thức và kế hoạch hành động nhằm bảo đảm an ninh và an toàn hạt nhân, trước hết là an toàn hạt nhân trong việc phát triển công nghiệp điện hạt nhân tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tổng thống Nga Đ.Mét-vê-đép nhận xét rằng, ông chưa thấy một diễn đàn quốc tế nào ông được tham dự kể từ khi làm Tổng thống mà tất cả các thành viên tham dự đạt được sự đồng thuận cao như thế. Theo ông, sở dĩ đạt được sự đồng thuận cao vì đây là nhu cầu bức thiết của tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt đó là quốc gia có sở hữu hay quốc gia không sở hữu vũ khí hạt nhân hoặc công nghệ hạt nhân.

Trước mối lo ngại về việc vũ khí hay công nghệ hạt nhân có thể rơi vào tay các tổ chức khủng bố, trọng tâm của Hội nghị là ngăn ngừa nguy cơ khủng bố hạt nhân. Phía Mỹ ước tính trên thế giới có khoảng 2.000 tấn urani và plutoni đạt cấp độ chế tạo vũ khí, nhưng theo các chuyên gia không phổ biến vũ khí hạt nhân thì chắc chắn con số thực tế là lớn hơn thế. Về mặt lý thuyết, những kẻ khủng bố hoàn toàn có thể đã chế tạo các thiết bị hạt nhân thô sơ, còn gọi là “bom bẩn” và đây là một hiểm hoạ thực sự.

Những cam kết mà các nước tham dự Hội nghị đạt được, có thể đánh giá là tích cực. Đó là, trong vòng 4 năm, các nước sẽ bảo đảm an toàn cho kho vũ khí hạt nhân và vật liệu hạt nhân, tạo điều kiện cho các nước có nhu cầu sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình có cơ hội tiếp cận với công nghệ này dưới sự giám sát chặt chẽ của quốc tế; đề phòng và ngăn ngừa âm mưu lợi dụng công nghệ hạt nhân dân sự để ngấm ngầm phát triển vũ khí hạt nhân; ngăn chặn nguy cơ khủng bố hạt nhâń; các nước sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ tiếp tục cắt giảm kho vũ khí của họ. Việc Nga và Mỹ mới đây ký kết Hiệp ước mới thay thế START-1 được xem là bước đi đầu tiên trên hành trình tới đích lớn đó.

Con đường còn lắm gian nan

Tuy nhiên, từ chỗ cam kết đồng thuận tiến tới tìm kiếm một cơ chế có hiệu lực để đảm bảo an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân còn là một bước dài, rất khó khăn vì nhiều lý do.

Lý do thứ nhất, để ngăn ngừa nguy cơ khủng bố hạt nhân, trước hết phải ngăn chặn được khủng bố. Một khi còn khủng bố và còn tồn tại vũ khí hạt nhân cũng như vật liệu hạt nhân ở đâu đó, thì khi đó chưa thể loại trừ được nguy cơ khủng bố hạt nhân. Trên thực tế, kể từ khi Mỹ phát động cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố năm 2001 tới nay, khủng bố ngày càng lan rộng bởi cho tới nay các nước vẫn chưa thống nhất được nhiều nội dung có ý nghĩa then chốt trong cuộc chiến này như: thế nào là khủng bố? do đâu có khủng bố? chống khủng bố bằng cách gì? Vì thế, có người đã lợi dụng sự chưa thống nhất này để mưu toan thực hiện mục đích riêng của họ. Ngoài ra, vì công nghệ hạt nhân không chỉ có nguy cơ rò rỉ từ các “điểm nóng hạt nhân”, mà còn có thể rò rỉ từ chính các quốc gia đã sở hữu vũ khí hạt nhân, do đó, để bảo đảm an ninh hạt nhân, trước hết các nước sở hữu vũ khí hạt nhân không chỉ phải cắt giảm mà còn phải bảo đảm an toàn cho kho vũ khí hạt nhân của họ, không để vũ khí hạt nhân rò rỉ ra ngoài, từng bước loại bỏ vũ khí hạt nhân.

Lý do thứ hai, một số nước vẫn coi việc sở hữu công nghệ hạt nhân là một thứ độc quyền của họ và họ muốn sử dụng công nghệ này để “ban phát ân huệ” cho các quốc gia cần tiếp nhận dưới danh nghĩa “tối huệ quốc” nhằm đạt được các mục đích chính trị.

Lý do thứ ba, để tìm kiếm một cơ chế đảm bảo an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân, cần có sự thống nhất hành động của tất cả các quốc gia trong cộng đồng quốc tế, không phân biệt đó là quốc gia đã sở hữu hay chưa sở hữu công nghệ hạt nhân. Trong khi đó, một số nước vẫn tự cho mình có quyền áp dụng “tiêu chuẩn kép” khi xem xét vấn đề phổ biến công nghệ hạt nhân và ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, gây nghi ngờ và làm mất lòng tin của nhiều quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Thí dụ, trong Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên về an ninh hạt nhân vừa qua ở Mỹ, nhiều nước lẽ ra phải được mời tham dự, nhưng họ phàn nàn rằng đã không nhận được giấy mời, còn I-xra-en không tới tham dự với lý do đang “bận” giải dàn xếp xung đột với Pa-le-xtin...
 
Lý do thứ tư, rất khó có thể kiểm soát và ngăn ngừa nguy cơ công nghệ hạt nhân được sử dụng vào mục đích phát triển vũ khí trong bối cảnh ngày càng có nhiều quốc gia muốn sở hữu công nghệ hạt nhân. Đa số các nước chỉ muốn sở hữu công nghệ hạt nhân vì mục đích hoà bình nhưng trong thế giới phức tạp, cònn hiều mâu thuẫn và xung đột như hiện nay, một số nước muốn phát triển vũ khí hạt nhân vì loại vũ khí này là công cụ vừa ít tốn kém, lại có ý nghĩa đặc biệt trong việc ngăn ngừa chiến tranh xâm lược từ phía các quốc gia đã sở hữu vũ khí hạt nhân. Lịch sử phát triển vũ khí hạt nhân đã chứng tỏ điều đó. Liên Xô và Trung Quốc phát triển vũ khí hạt nhân để ngăn ngừa chiến tranh hạt nhân từ phía Mỹ; Ấn Độ có vũ khí hạt nhân kích thích Pa-ki-stan sở loại vũ khí này vì hai bên đang tranh chấp quyết liệt về chủ quyền khu vực Ca-smia; Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân để ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh từ phía các quốc gia đã có vũ khí hạt nhân bởi cho tới nay cuộc chiến tranh Triều Tiên đã kết thức gần 60 năm những các bên tham chiến vẫn chưa ký kết được hiệp ước hoà bình... Ngay cả chiến lược hạt nhân của Mỹ, Nga và một số quốc gia khác vẫn coi vũ khí hạt nhân đóng vai trò then chốt nhằm bảo đảm an ninh quốc gia. Riêng Mỹ, họ vẫn dùng vũ khí hạt nhân như một chiếc “ô an ninh” để lôi kéo đồng minh và đối tác.

Lý do thứ năm, trong thế giới hôm nay, an ninh hạt nhân gắn chặt với nhiều yếu tố khác bên ngoài lĩnh vực hạt nhân, ngay cả khái niệm cân bằng chiến lược cũng đã thay đổi. Vì thế, những quốc gia đã sở hữu vũ khí hạt nhân đang tìm kiếm và duy trì sự cân bằng và ổn định chiến lược kết hợp giữa vũ khí hạt nhân và vũ khí tiến công chiến lược phi hạt nhân, không để cho một quốc gia nào đó chiếm ưu thế đơn phương. Hiệp ước START mới vừa được ký kết đã chứng tỏ điều này, trong đó lần đầu tiên các bên đã đưa vũ khí tiến công chiến lược phi hạt nhân vào cán cân quân sự.

Không có vũ khí hạt nhân liệu đã đủ để thế giới trở nên an toàn hơn?

Câu trả lời sẽ phụ thuộc vào chính sách mà từ đó sinh ra vũ khí hạt nhân. Theo các chuyên gia quân sự, hiện nay Mỹ đang xúc tiến thực hiện các chương trình phát triển vũ khí phi hạt nhân thế hệ mới dựa trên những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, nhằm tạo ra một cuộc cách mạng mới trong lĩnh vực quân sự, chuẩn bị giành ưu thế quân sự tuyệt đối và đơn phương so với bất kỳ quốc gia nào trong thế giới phi hạt nhân. Vì thế, các chuyên gia đã từng dự báo về một kỷ nguyên mới trong lĩnh vực quân sự, trong đó một siêu cường hạt nhân sẽ chuyển hoá thành siêu cường phi hạt nhân, nhằm phục vụ chiến lược tìm kiếm vị thế “lãnh đạo” thế giới.

Vì thế, chừng nào các quốc gia chưa thay đổi chính sách sử dụng sức mạnh quân sự để an thiệp và làm phương hại tới lợi ích quốc gia của các nước khác, thì chừng đó không những chưa thể loại trừ được vũ khí hạt nhân, mà ngay cả khi vũ khí hạt nhân được loại trừ rồi, thế giới vẫn chưa thể được an toàn.

Giải pháp nào có hiệu lực để đạt mục tiêu an ninh và an toàn hạt nhân?

Để hướng tới mục tiêu xây dựng một thế giới an ninh và an toàn hạt nhân, giải pháp cơ bản, duy nhất và có hiệu lực là tổ chức các diễn đàn an ninh quốc tế trong khuôn khổ Liên hợp quốc nhằm thiết lập các thể chế bảo đảm an ninh quốc tế mới. Thể chế đó sẽ bao gồm các tổ chức giám sát quốc tế đối với quá trình phổ biến công nghệ hạt nhân, sử dụng nguyên liệu hạt nhân và kiểm soát vũ khí hạt nhân. Trong điều kiện hiện nay, chưa một quốc gia nào có đủ uy tín và “công tâm” để “lãnh đạo” quá trình thiết lập cơ chế này.

Thế giới đã từng có nhiều sáng kiến nhằm hướng tới xây dựng một thế chế như vậy, điển hình là Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) có hiệu lực từ năm 1970. Hội nghị giải trừ vũ khí hạt nhân vừa kết thúc ngày 18-4/2010 ở Tê-hê-ran với chủ đề “Không ai được sở hữu vũ khí hạt nhân, còn công nghệ hạt nhân hoà bình là sở hữu của tất cả” đã ra tuyên bố kêu gọi các nước tiếp tục thực hiện các cam kết để ra trong Hiệp ước NPT. Tháng 5-2010, Liên hợp quốc dự kiến sẽ tổ chức Hội nghị tổng quan về Hiệp ước NPT nhằm điều chỉnh và bổ sung nội dung của hiệp ước này sao cho phù hợp với tình hình thế giới đã thay đổi đáng kể từ năm 1970 là thời điểm NPT có hiệu lực. Đây sẽ là những bước đi quan trọng nhằm đề ra các giải pháp cụ thể và có hiệu lực hướng tới một thế giới phi hạt nhân./.