Tư tưởng, tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với thương binh, liệt sĩ
TCCSĐT - “Uống nước nhớ nguồn”, một truyền thống đạo lý nhân ái cao quý và là một giá trị đạo đức cao đẹp trong sâu thẳm đời sống văn hóa của dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ của nhân dân Việt Nam, đạo lý này được thể hiện đầy đủ, toàn diện và sâu sắc trong tư tưởng, tình cảm của Người dành cho thương binh, liệt sĩ, những người đã hy sinh thân mình cho nền độc lập tự do của Tổ quốc.
Trong suốt cả cuộc đời hoạt động, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định công lao to lớn của các thương binh, liệt sĩ và gia đình họ, tri ân những hy sinh, cống hiến của những người sẵn sàng hiến thân cho Tổ quốc.
Năm 1946, khi vừa giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời và đang trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”, trong thư gửi cho đồng bào Nam Bộ, Người viết: Tôi xin kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Ghi nhận và đánh giá cao sự hy sinh và cống hiến của các thương binh, liệt sĩ, bằng tình cảm nặng tình ân nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như một trận lụt to. Nó đe doạ tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố, mẹ, vợ, con, dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững, để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ”(1)… Người cũng khẳng định: Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ…
Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người còn căn dặn: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thi chính quyền xã và hợp tác xã nông nghiệp), phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”…
Tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “Ngày thương binh” để nhân dân ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với đất nước. Thực hiện chỉ thị của Người, Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, ban ngành ở trung ương và địa phương đã họp ở xã Phú Minh (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) bàn bạc, nhất trí đề nghị lấy ngày 27-7-1947 làm “Ngày thương binh, liệt sĩ”. Từ đó, ngày 27-7 hằng năm trở thành “Ngày thương binh, liệt sĩ” trong cả nước.
Tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với thương binh, liệt sĩ không chỉ thể hiện qua lời nói mà còn bằng những việc làm cụ thể. Vào những dịp này, Người đã gửi thư kèm những món quà (do đồng bào, đồng chí gửi biếu Người) đến anh chị em thương binh, các gia đình liệt sĩ; đồng thời nhắc nhở trách nhiệm, động viên và biểu dương những địa phương, cơ quan, đơn vị và các cá nhân đã hết lòng giúp đỡ thương binh và gia đình liệt sĩ. Chiều ngày 11-7-1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, trong một buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “mùa đông chiến sĩ”, Bác đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng binh sĩ. Nhân cuộc mít tinh quan trọng ngày 27-7-1947, Người đã viết thư và xung phong gửi tặng 1 chiếc áo lụa, 1 tháng lương, 1 bữa ăn của Người và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127đ) ủng hộ. Sau này, Người còn nhiều lần gửi tiền tiết kiệm, tiền nhuận bút của mình ủng hộ thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với đất nước. . .
Là người đứng đầu đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu những mất mát lớn lao này, Người luôn dành tình cảm đặc biệt với thương binh, liệt sĩ và gia đình có công với Tổ quốc. Sự quan tâm này được thể hiện sinh động bằng những hoạt động hết sức thiết thực, phù hợp với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc Việt Nam và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng.
Suốt 24 năm trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, liệt sĩ là những người cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Người hết lòng lo lắng tích cực kêu gọi và nêu ra nhiều sáng kiến phát động các phong trào giúp đỡ anh chị em thương binh, bệnh binh và các gia đình liệt sĩ bằng mọi cách có thể.
Tháng 02-1948, Người gửi thư cho các cháu nhi đồng phát động phong trào công tác Trần Quốc Toản nhằm giúp đỡ các gia đình bộ đội, gia đình thương binh, liệt sĩ... Tháng 7-1951, Người phát động phong trào “đón thương binh về làng” với những nội dung cụ thể, rõ ràng, thiết thực: “Chính quyền, đồng bào và các đoàn thể nhân dân trong mỗi xã phải tùy theo sự cố gắng và khả năng chung của mỗi xã mà đón một số anh em thương binh. Giúp lâu dài chứ không phải chỉ giúp một thời gian. Không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi thương binh, nhưng giúp bằng cách này:
1. Mỗi xã trích một phần ruộng công, nếu không có ruộng công thì mượn ruộng của những đồng bào có hằng tâm, hằng sản, nếu không mượn được ruộng thì chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã chung sức phát vỡ một số đất mới để giúp thương binh.
2. Chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã tổ chức việc cày cấy, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy. Hoa lợi để nuôi thương binh.
3. Tùy theo số ruộng đất trích được, mượn hoặc khai khẩn được, mà đón nhiều người hoặc ít người thương binh về xã... Kế hoạch tỉ mỉ sẽ do Chính phủ cùng Mặt trận Liên Việt định sau. Với lòng hăng hái và cố gắng của đồng bào, với sự nỗ lực của cán bộ chính quyền và đoàn thể các địa phương, tôi tin chắc rằng công việc đón anh em thương binh về làng sẽ có kết quả tối đẹp...
Người nêu ra phương châm chỉ đạo trong thực hiện công tác thương binh liệt sĩ rất phù hợp với đạo lý truyền thống của dân tộc và hoàn cảnh đất nước: Đồng bào sẵn sàng giúp đỡ, Chính phủ ra sức nâng đỡ, anh em có quyết tâm thì anh em nhất định dần dần tự túc được.
Ghi nhớ và thực hiện lời dạy của Người, gần 70 năm qua, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách với thương binh, liệt sĩ cùng thân nhân của họ. Chính sách thương binh, liệt sĩ đã phát triển thành hai Pháp lệnh: Pháp lệnh quy định danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng cùng hệ thống cơ chế, chính sách là tiền đề quan trọng để thực hiện ngày càng tốt hơn công tác “ Đền ơn đáp nghĩa” .
Ngày 28-4-2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 12/CT-TTg về việc tăng cường chăm sóc người có công với cách mạng và hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”. Đây là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân và các tổ chức chính trị, xã hội tiếp tục thực hiện tốt công tác chính sách, đẩy mạnh phong trào “đền ơn, đáp nghĩa” với những việc làm hiệu quả, thiết thực như: xây “Nhà tình nghĩa”, “Nhà đồng đội”, quỹ “Đền ơn, đáp nghĩa”, quỹ “Chất độc da cam”… Các phong trào này phát triển ngày càng sâu rộng, mang tính xã hội hoá cao, góp phần xoa dịu nỗi đau mất mát, giải quyết khó khăn, ổn định cuộc sống cho các thương, bệnh binh và các gia đình liệt sĩ.
Mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng hằng năm Đảng và Nhà nước ta luôn ưu tiên dành hàng chục nghìn tỷ đồng trong ngân sách nhà nước đã để thực hiện chính sách trợ cấp ưu đãi, chăm lo cho trên 8,8 triệu người có công, trong đó có trên 1,4 triệu người đang hưởng trợ cấp ưu đãi hằng tháng.
Cùng với nguồn ngân sách nhà nước, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị, xã hội, các đơn vị, cá nhân đã tích cực vận động ủng hộ và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực để tri ân đối với người có công. Trong năm năm qua, cả nước đã đóng góp xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” được gần 1.500 tỷ đồng, xây mới hơn 55.600, sửa chữa hơn 39.000 nhà tình nghĩa với kinh phí hàng trăm tỷ đồng… Việc xây dựng xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và người có công đã trở thành phong trào được cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đưa vào kế hoạch phấn đấu của địa phương. Hiện cả nước đã có 96% số xã, phường được công nhận là xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và người có công.
Cùng với sự sẻ chia của toàn xã hội, các anh chị em thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ khắc sâu lời dạy của Người “tàn nhưng không phế” đã tiếp tục phát huy truyền thống, khả năng của mình, ra sức lao động, phấn đấu vươn lên, xứng đáng là những “công dân kiểu mẫu”, những “gia đình cách mạng gương mẫu” như mong muốn của Bác Hồ. Nhiều thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ đã trở thành những cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học xuất sắc, những doanh nhân thành đạt…
Tư tưởng và tình cảm nặng tình ân nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ đã được toàn Đảng, toàn dân ta thấm nhuần sâu sắc. Các thế hệ hôm nay và mai sau không bao giờ quên bổn phận thực hiện di huấn của Người đối với thương binh, liệt sĩ và người có công./.
-----------------------------------------------
Chú thích:
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t. 5, tr. 466
Họp báo công bố kết quả kiểm toán năm 2013  (25/07/2014)
Họp báo công bố kết quả kiểm toán năm 2013  (25/07/2014)
Hội thảo kỷ niệm 60 năm Hiệp định Geneva tại Ấn Độ  (25/07/2014)
Mọi hoạt động của Trung Quốc ở Hoàng Sa, Trường Sa là vô giá trị  (25/07/2014)
Nâng cao năng lực thực hành dân chủ của cán bộ, đảng viên  (25/07/2014)
Việt Nam là thành viên tích cực trong mối quan hệ ASEAN - EU  (24/07/2014)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm