TCCS - Dầu khí là nguồn năng lượng quan trọng, đóng góp 64% tổng năng lượng đang sử dụng toàn cầu. Trong thế kỷ XXI, vai trò của dầu khí đối với nền kinh tế thế giới vẫn hết sức quan trọng, vì trong cân bằng năng lượng toàn cầu, dầu khí vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Điều này đặt ra thách thức bảo đảm phát triển năng lượng nói chung và dầu khí nói riêng hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Định hướng phát triển ngành dầu khí

Phát triển năng lượng là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược quan trọng, làm nền tảng hạ tầng để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời gian qua, ngành năng lượng đã đạt được nhiều thành tựu, tích cực phát huy và thực hiện hiệu quả vai trò là đầu tàu kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, trong 10 năm trở lại đây, bối cảnh tình hình quốc tế và đất nước đã có những thay đổi, chuyển biến đáng kể, tác động khá lớn đến sự phát triển của ngành năng lượng.

Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) không ngừng phát triển, trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, đóng góp vào sự phát triển của đất nước_Ảnh: PVN

Đứng trước yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, trên cơ sở Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11-2-2020, của Bộ Chính trị, “Về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết số 55-NQ/TW) và trong bối cảnh thực hiện Cam kết của Việt Nam tại COP26 về phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, “Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045” được kỳ vọng sẽ tiếp tục góp phần hoạch định hướng phát triển toàn diện ngành năng lượng quốc gia và kết nối việc phát triển năng lượng với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội - môi trường của Việt Nam, “Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045” hướng tới các mục tiêu cụ thể là đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng trong nước, phục vụ cho các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030. Trong đó năng lượng sơ cấp đến năm 2030 đạt khoảng 175-195 triệu tấn dầu quy đổi (TOE), đến năm 2045 đạt khoảng 320-350 triệu TOE; tổng công suất của các nguồn điện đến năm 2030 đạt khoảng 125-130 GW, sản lượng điện đạt khoảng 550-600 tỷ kWh. Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng đến năm 2030 đạt mức 105-115 triệu TOE, năm 2045 đạt mức 160-190 triệu TOE.

Riêng đối với ngành dầu khí, mục tiêu đề ra là tăng sản lượng khai thác dầu thô và khí; phát triển thị trường khí và xây dựng kết cấu hạ tầng cho phân phối và nhập khẩu khí; sản lượng sản phẩm xăng dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu trong nước; bảo đảm mức dự trữ chiến lược xăng dầu đạt tối thiểu 90 ngày nhập ròng; đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hoá lỏng (LNG) khoảng 12-15 tỷ m3 vào năm 2030 và khoảng 20 tỷ m3 vào năm 2045.

Để đạt được những mục tiêu trên, Bộ Công Thương với tư cách là cơ quan chru quản đã xây dựng định hướng phát triển cho từng lĩnh vực của ngành dầu khí, bao gồm lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí; công nghiệp khí, chế biến dầu khí; vận chuyển, tồn trữ và phân phối sản phẩm dầu khí.

Đối với lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí là đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản và tìm kiếm, thăm dò nhằm gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác dầu khí tại các khu vực tiềm năng, nước sâu, xa bờ gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển; nâng cao hệ số thu hồi, tận thu các mỏ nhỏ, khối sót cận biên. Thực hiện tốt công tác quản lý các mỏ dầu khí, tối ưu và duy trì khai thác có hiệu quả các mỏ dầu khí đã đưa vào khai thác; đồng thời tiếp tục triển khai công tác phát triển và sớm đưa vào khai thác dự án Lô B&48/95 và 52/97, mỏ khí Cá Voi Xanh, Báo Vàng, Báo Trắng và các mỏ thuộc dự án khí Tây Nam...

Đối với lĩnh vực công nghiệp khí là phát triển lĩnh vực công nghiệp khí hoàn chỉnh, đồng bộ tất cả các khâu: khai thác - thu gom - vận chuyển - chế biến - dự trữ - phân phối khí và xuất nhập khẩu sản phẩm khí; phát triển thị trường khí, chính sách giá khí, đẩy mạnh triển khai các dự án phát triển mỏ, khai thác, thu gom khí; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thu gom, cung cấp, nhập khẩu khí, đặc biệt là hệ thống kho cảng LNG; đồng thời đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án công nghiệp khí.

Đối với lĩnh vực chế biến dầu khí là phát triển lĩnh vực chế biến dầu khí để đáp ứng nhu cầu trong nước, hướng tới mục tiêu xuất khẩu; tích hợp lọc dầu với hóa dầu, hóa chất để nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm dầu khí; nghiên cứu thực hiện việc đầu tư cải tiến/nâng cấp sản phẩm, phát triển sản phẩm mới; duy trì vận hành ổn định, an toàn các nhà máy lọc dầu, đầu tư nâng cấp, mở rộng các nhà máy lọc dầu hiện hữu; nghiên cứu đầu tư các dự án hóa dầu/hóa chất mới gắn với các trung tâm chế biến dầu khí; nghiên cứu sản xuất hydro, sản xuất năng lượng tái tạo tích hợp với nhà máy lọc hóa dầu, hóa chất, phân bón, sử dụng làm nhiên liệu cho pin nhiên liệu, định hướng hoàn thiện chuỗi giá trị hydro khâu sau.

Đối với lĩnh vực tồn trữ và phân phối các sản phẩm dầu khí là phát triển hợp lý hệ thống phân phối xăng dầu nhằm bảo đảm lưu thông và bình ổn thị trường tiêu thụ, đáp ứng toàn bộ nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước; tăng cường các giải pháp gia tăng dự trữ về dầu thô và xăng dầu; khuyến khích sử dụng rộng rãi nhiên liệu sinh học nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và bảo vệ môi trường.

Một số giải pháp

Trong những năm qua, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) không ngừng phát triển, trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, đồng bộ từ tìm kiếm, thăm dò khai thác đến công nghiệp khí, công nghiệp điện, công nghiệp lọc hoá dầu, tồn trữ, vận chuyển, phân phối sản phẩm dầu khí và dịch vụ kỹ thuật dầu khí, có đóng góp quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia; đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tham gia có hiệu quả bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông và giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược kinh tế biển Việt Nam. trong giai đoạn phát triển mới, Petrovietnam cần tập trung chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, phát triển kinh tế tuần hoàn, dịch chuyển mô hình, tăng năng suất lao động… Do đó, cần tập trung vào một số nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, về thể chế cần tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển ngành dầu khí. Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù cho Petrovietnam phát triển; theo đó tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực cốt lõi - Thăm dò khai thác dầu khí. 

Thứ hai, tăng cường quản trị và quản lý doanh nghiệp. Tiếp tục cải cách, đổi mới, áp dụng các phương thức quản trị tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả quản trị, quản lý các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tiếp tục cơ cấu lại, sắp xếp doanh nghiệp, giảm bớt trung gian, tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của đội ngũ làm quản lý, lãnh đạo. Nâng cao trách nhiệm người đứng đầu, gia tăng áp lực trách nhiệm đối với người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và các chức danh lãnh đạo, quản lý. Có cơ chế rõ ràng để xử lý trách nhiệm và thay thế kịp thời các vị trí, chức danh này khi Petrovietnam cũng như các đơn vị trực thuộc kinh doanh thua lỗ, không bảo toàn và phát triển được nguồn vốn nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán trong quá trình cổ phần hóa, thoái vốn và quản lý, sử dụng vốn nhà nước ở Petrovietnam và các đơn vị trực thuộc có vốn nhà nước, không để xảy ra thất thoát, tham nhũng, lãng phí. Thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch thông tin và huy động sự tham gia, giám sát của nhiều chủ thể, nhất là các tổ chức chính trị - xã hội đối với quá trình này.

Thứ ba, chú trọng xây dựng đội ngũ nhân lực đáp ứng nhu cầu mới. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư phát triển mạnh mẽ đòi hỏi đội ngũ cán bộ cần tự hoàn thiện chính mình. Phát triển nguồn nhân lực ngành dầu khí chuyên nghiệp, theo tiêu chuẩn quốc tế; chú trọng đào tạo nâng cao năng lực quản lý, điều hành; ưu tiên đào tạo về chuyên môn, kỹ năng thuộc các lĩnh vực kinh doanh chính. Xây dựng chế độ thù lao, thu nhập của người lao động có chuyên môn cao tiệm cận với thu nhập của các nước trong khu vực...

Thứ tư, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; hoàn thiện việc cơ cấu lại ở một số đơn vị; nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp; nâng cao chất lượng hệ thống quản trị, kiểm soát của doanh nghiệp trong ngành; thực hành tiết kiệm, tối ưu hóa nguồn lực, cải tiến quản lý sản xuất. Về chính sách thu hút đầu đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cần có sự thay đổi theo hướng thiết thực, hiệu quả, phục vụ cho phát triển nền kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vừa góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia trên Biển Đông vừa thu hút được vốn, công nghệ.

Thứ năm, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả quản trị đầu tư; chủ động cân đối dòng tiền, kế hoạch huy động vốn để kịp ứng phó trước diễn biến giá dầu ở đang ở mức thấp; tiết kiệm tối đa phí đầu tư các dự án, công trình, rà soát lại các hoạt động đầu tư theo hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả.

Thứ sáu, chủ động phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan tiếp tục thực hiện các hoạt động dầu khí gắn liền với bảo vệ chủ quyền, biển đảo. Chủ động, nâng cao hiệu quả công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại những khu vực nước sâu, xa bờ trên biển nhằm tăng cường sự hiện diện và khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên thực tế, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia./.

Tag PVN