Xây dựng, phát triển toàn diện giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong, lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu của giai cấp công nhân, ngay từ ngày đầu thành lập đã xác định: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng" (1). Qua từng giai đoạn cách mạng, quan điểm của Đảng ta về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân, về xây dựng, phát triển giai cấp công nhân ngày càng được bổ sung, hoàn thiện.
Tại Đại hội II của Đảng, tháng 2-1951, Đảng ta chủ trương xây dựng chính quyền nhân dân, dựa vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Đảng ta luôn coi giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt, lãnh đạo cách mạng và đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm tập hợp, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, thực sự phát huy được vai trò tiên phong trong cách mạng, góp phần đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước đi đến thắng lợi. Khi nước nhà thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp công nhân tiếp tục được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Đại hội IV của Đảng xác định: xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, xứng đáng với vai trò giai cấp tiên phong, lãnh đạo cách mạng là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhận thức rõ ý nghĩa quan trọng của vấn đề xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong giai đoạn cách mạng mới, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (năm 1986) chỉ rõ: "Đảng cần có những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ hiểu biết về mọi mặt để xứng đáng với vị trí giai cấp tiên phong của cách mạng, đồng thời chăm lo đời sống vật chất và văn hóa, tạo ra những điều kiện cần thiết để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình"(2).
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII nhấn mạnh: "Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình" (3). Với tinh thần thẳng thắn, Đảng đã chỉ ra những hạn chế về xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân và công đoàn trong quá trình chuyển sang cơ chế mới: đã có những biểu hiện coi nhẹ vị trí, vai trò giai cấp công nhân, các chủ trương, chính sách xây dựng giai cấp công nhân chậm được đổi mới, và khẳng định: "Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội, đồng thời là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tập thể công nhân"(4). Quan điểm này tiếp tục được khẳng định và phát triển tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996).
Bước vào thế kỷ XXI, trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tư duy của Đảng về giai cấp công nhân ngày càng phát triển và hoàn thiện. Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta khẳng định: "Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện "trí thức hóa công nhân", nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới..."(5).
Như vậy, có thể khẳng định: Sự đổi mới tư duy của Đảng ta về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân từng bước được bổ sung trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, tạo nền tảng cho việc hoàn thiện đường lối, chủ trương xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp công nhân, đã và đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh và ngày càng có những đóng góp to lớn, có tính chất quyết định đến sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, giai cấp công nhân nước ta tuy chỉ chiếm 17,5% tổng lực lượng lao động xã hội, nhưng hằng năm tạo ra khoảng 70% giá trị tổng sản phẩm trong nước, và đang nắm giữ những cơ sở vật chất quan trọng nhất và có tính quyết định tới phương hướng phát triển của nền kinh tế - xã hội, thực sự là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, là nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết dân tộc.
Xây dựng, phát triển toàn diện giai cấp công nhân - vấn đề có ý nghĩa sinh tử nhằm nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nguồn gốc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm công cuộc đổi mới. |
Từ cách nhìn đó, Đảng ta tiếp tục đưa ra những đường lối, chủ trương đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế và lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật để giải quyết thỏa đáng các vấn đề sau:
1 - Đẩy mạnh cuộc vận động sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân về việc nâng cao hơn nữa nhận thức và ý thức phát triển trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong tầng lớp công nhân, lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước, từ đó góp phần nâng cao địa vị của người lao động, phát triển các giá trị văn hóa lao động, hình thành phong cách lao động công nghiệp, tiên tiến, văn minh, góp phần cải thiện đời sống, phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
2 - Nhà nước cần tập trung nghiên cứu, hoàn thiện chính sách đào tạo, đào tạo lại công nhân, xác định rõ tiêu chuẩn công nhân phải qua đào tạo, đặc biệt trong các ngành trọng điểm, các lĩnh vực đòi hỏi trình độ kỹ thuật và công nghệ cao. Cần xây dựng, hoàn thiện chính sách hướng nghiệp ở cấp học phổ thông nhằm giúp học sinh định hướng đúng đắn việc chọn nghề; có cơ chế khuyến khích, tuyển chọn một bộ phận thanh niên ưu tú, nhất là con em các gia đình có truyền thống làm công nhân, những thanh niên hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quân sự... được đào tạo trong các trường dạy nghề. Tạo điều kiện thuận lợi về cả vật chất và tinh thần cho công nhân học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin học; nghiên cứu ban hành chính sách ưu đãi trong tuyển chọn, sử dụng đối với những công nhân giỏi nghề, học tập có kết quả cao, để đưa đi thực tập hoặc đào tạo thêm ở các nước có nền công nghiệp phát triển. Đồng thời, cần có quy định về việc tôn vinh những công nhân hội tụ đủ đức và tài, có nhiều sáng kiến, thành tích nổi bật trong lao động, sản xuất nhằm khuyến khích và thúc đẩy không khí thi đua phấn đấu trong đội ngũ công nhân.
Nhà nước cần tiến hành kế hoạch hóa công tác dạy nghề một cách đồng bộ, bảo đảm sự cân đối ngay trong hệ thống giáo dục, cũng như sự cân bằng giữa giáo dục - đào tạo, dạy nghề, hướng nghiệp với nhu cầu và yêu cầu thực tế của sự phát triển kinh tế - xã hội. Chú trọng đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất cho các trường dạy nghề, ưu tiên xây dựng trường dạy nghề chuẩn với chương trình chuẩn trong cả nước để đào tạo những ngành nghề mũi nhọn; có chính sách phù hợp phát triển đa dạng và chuyên sâu nhiều loại hình đào tạo tại các trường, trung tâm và tại chính các doanh nghiệp, thu hút người lao động học tập nâng cao trình độ, tay nghề.
3 - Thông qua các chính sách xã hội và bằng chính sách xã hội, Nhà nước cần đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu và điều kiện thiết yếu cho công nhân, lao động, quan tâm hơn đến việc thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân, như: tiền lương, nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế..., bởi nguyện vọng chính đáng của công nhân là khi tham gia lao động được trả công tương xứng với sức lao động bỏ ra, có và được hưởng lợi ích vật chất, tinh thần, cũng như các quyền lợi chính trị - xã hội một cách công bằng. Sớm hoàn thiện chính sách nhà ở và chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nhà ở cho công nhân, lao động (đặc biệt ở các khu công nghiệp tập trung) theo hướng Nhà nước và doanh nghiệp cùng góp vốn, hoặc huy động thêm vốn của người lao động để xây các khu tập thể, hoặc nhà bán trả góp cho họ, hoặc cho thuê, hỗ trợ về nhà ở cho những gia đình công nhân, lao động nghèo... nhằm giúp họ ổn định về chỗ ở, yên tâm cống hiến cho công việc.
Xét ở góc độ quản lý, việc đáp ứng các điều kiện cho người lao động thực chất là đầu tư chiều sâu, là bồi dưỡng nguồn nhân lực. Trước mắt, cần xây dựng, hoàn thiện hơn nữa môi trường xã hội và thị trường lao động lành mạnh, tạo mọi điều kiện để công nhân, lao động được phát huy hết khả năng của mình. Đồng thời, cần chú trọng khuyến khích các lĩnh vực, ngành nghề, khuyến khích người có vốn, kỹ thuật, công nghệ, có trình độ quản lý... đầu tư vào sản xuất, kinh doanh để tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút thêm nhiều lực lượng lao động.
4 - Hoàn thiện chính sách về bảo hiểm xã hội, thành lập quỹ hỗ trợ thất nghiệp trên cơ sở huy động sự đóng góp của Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và sự hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân để trợ cấp một phần tài chính cho người lao động khi bị thất nghiệp; cải cách chính sách tiền lương và công tác tổ chức tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp nhằm bảo đảm đời sống cho công nhân.
Đồng thời, cần quan tâm hơn nữa đến các chính sách khuyến khích xã hội, như: chính sách thi đua - khen thưởng, tôn vinh các cá nhân, tập thể xuất sắc, có nhiều sáng kiến, sáng chế, cải tiến kỹ thuật, công nghệ,... góp phần rút ngắn thời gian lao động, nâng cao hiệu suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc; có quy định ưu đãi những công nhân có thành tích lao động, sản xuất tốt, nổi bật, nhằm khuyến khích họ cống hiến năng lực, trí tuệ và sức lao động một cách hiệu quả nhất.
5 - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến người lao động: có quy định xử lý nghiêm những vi phạm đến quyền lợi người lao động, chú trọng cải thiện điều kiện lao động, phòng chống có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khỏe cho họ, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh định kỳ, đặc biệt đối với nữ giới.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr 115
(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội, 1994, tr 98
(4) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội, 1994, tr 98
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 124 – 125
Báo cáo thịnh vượng thế giới 2007  (13/08/2007)
Thách thức lớn trong thời đại kinh tế thông tin  (13/08/2007)
Vai trò mới của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay  (13/08/2007)
Ngân hàng Thế giới sẽ tiếp tục tăng tài trợ vốn cho Việt Nam  (09/08/2007)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên