Văn hóa vùng mỏ, con người vùng mỏ: Nét đặc sắc từ truyền thống đến hiện tại

Nguyễn Thị Nhàn Thư
Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
03:19, ngày 30-09-2023

Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, giao lưu văn hóa rộng rãi, nghiên cứu thực trạng và phát huy truyền thống văn hóa thợ Mỏ là việc làm vừa cấp bách, vừa lâu dài và rất cần thiết đối với TKV.

Với bản sắc văn hóa đặc sắc duy nhất có trong cả nước “Kỷ luật và đồng tâm”, văn hóa vùng mỏ đã góp phần quan trọng vào đặc trưng văn hóa, con người Quảng Ninh, tạo nên tên gọi VÙNG ĐẤT MỎ. Và khi nhắc đến đều gắn liền với tên gọi VÙNG ĐẤT MỎ ANH HÙNG. Nết văn hóa, đặc trưng con người này là thể hiện sinh động tinh thần, trí tuệ, là sự chuyên nghiệp, là đoàn kết và hướng đến phát triển…

1. Không chỉ là đặc trưng mang tính tự nhiên, đây chính trái ngọt từ những chủ trương của nhiều thế hệ lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ, công nhân thợ Mỏ nói riêng thường xuyên được quan tâm, chú trọng. Đội ngũ những người công nhân mỏ ngày càng được tri thức hóa, có trình độ học vấn, chuyên môn, có tác phong công nghiệp, kỷ luật, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và yêu cầu của thời kỳ mới. Những phẩm chất này được xây dựng trên nền tảng vững chắc từ trong quá khứ với truyền thống hào hùng đến hiện tại với sự năng động, sáng tạo không ngừng, thể hiện rõ ở:

Thứ nhất, VÙNG ĐẤT MỎ ANH HÙNG, “Kỷ luật và đồng tâm” - hình thành, phát triển trong đấu tranh cách mạng

Ra đời cách đây hơn 180 năm, từ năm 1840, khi nhà Vua Minh Mạng ban chỉ dụ đồng ý theo đề nghị của Tổng đốc Hải An Tôn Thất Bật cho tổ chức khai thác than tại vùng núi An (Yên) Lãng (nay thuộc xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều). Khi Thực dân Pháp xâm lược, thiết lập bộ máy cai trị Đất nước ta, để tăng cường vơ vét tài nguyên phục vụ lợi ích cho chính quốc, đầu năm 1888 chúng đã lập ra một công ty khai thác than đá lớn nhất nước Pháp mang tên Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ (S.F.C.T) để khai thác than trên diện rộng từ Kế Bào (Cái Bầu), Mông Dương, Cẩm Phả, Hòn Gai, đến Vàng Danh, Mạo Khê. Đây là cơ sở công nghiệp có qui mô lớn ra đời đầu tiên ở Việt Nam và Đông Dương và đó cũng là cái nôi ra đời của đội ngũ công nhân mỏ Quảng Ninh nói riêng và giai cấp công nhân Việt Nam nói chung. Xuất thân của đội ngũ công nhân, lao động vùng mỏ Quảng Ninh hầu hết là nông dân, chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ (Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Hải Dương), ngoài ra là nông dân các tỉnh khác (Thanh Hóa, Nghệ An) và nông dân Quảng Ninh (các vùng Quảng Yên, Hòn Gai). Đây là tầng lớp nông dân bị bần cùng hoá dưới chế độ sưu thuế, áp bức nặng nề dưới chế độ thực dân phong kiến tìm đường kiếm kế sinh nhai hoặc bị ép buộc, dồn bắt ra làm thuê cho các chủ mỏ. Trong quá trình khai thác than, thực dân Pháp sử dụng tổng hợp các phương thức bóc lột kiểu tư bản, phong kiến và chủ nô, ra sức bóc lột, đàn áp công nhân hết sức tàn nhẫn nhằm vơ vét ngày càng nhiều tài nguyên, của cải của đất nước ta trên cơ sở bần cùng hóa và vắt kiệt sức lao động của những người thợ mỏ.

Có áp bức thì có đấu tranh, những người thợ mỏ đã nhen nhóm lên ngọn lửa đấu tranh và ngày càng quyết liệt chống áp bức, bóc lột của bọn thực dân chủ mỏ. Trong những năm 1930 – 1936, phong trào đấu tranh của công nhân vùng Mỏ tiếp tục phát triển. Từ đấu tranh tự thân đến đấu tranh tự phát, và phát triển lên đến đấu tranh tự giác khi phong trào đấu tranh của những người thợ mỏ có sự soi đường, chỉ lối của Đảng Cộng sản. Sẵn có lòng yêu nước, có tinh thần đấu tranh chống lại chủ mỏ Pháp, lại được sự lãnh đạo, hướng dẫn của tổ chức Đảng, phong trào đấu tranh của đội ngũ công nhân, lao động vùng Mỏ đã có bước phát triển mới. Từ tháng 3 tới tháng 10 năm 1930, ở các khu mỏ đã diễn ra trên 20 cuộc đấu tranh thu hút đông đảo công nhân tham gia, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân Nhà sàng Cửa Ông nổ ra ngày 8 tháng 4 năm 1930 và tiếp theo là cuộc đấu tranh trong cao trào cách mạng 1930 – 1931 của cả nước nói chung và các khu mỏ nói riêng.

Đỉnh cao là cuộc tổng bãi công của 3 vạn công nhân và nhân dân lao động vùng Mỏ vào đêm ngày 12/11/1936. Thắng lợi của cuộc Tổng bãi công phản kháng chế độ thực dân Pháp kéo dài 20 ngày, khởi đầu từ cuộc bãi công của 5000 công nhân và nhân dân lao động Cẩm Phả, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khẩu hiệu “Kỷ luật và Đồng tâm, chúng ta nhất định thắng”, đã thành công và gây tiếng vang lớn trên toàn quốc, và ngày 12/11 trở thành Ngày Truyền thống vẻ vang của Công nhân Vùng mỏ - Truyền thống ngành Than.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công nhân vùng mỏ cùng toàn dân làm nên Cách  mạng Tháng tám năm 1945, thành công ở Quảng Ninh. Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, là sự phát huy cao độ truyền thống đấu tranh anh dũng của công nhân vùng Mỏ và nhân dân lao động.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dưới mưa bom, bão đạn, công nhân vùng Mỏ đã vừa sản xuất, vừa chiến đấu, thực hiện “Trận địa là nhà, vùng Mỏ là quê hương”, “Tay búa, tay súng”, “Giặc phá hoại một, ta làm bù hai, ba”, “Mỗi người làm việc hăng hái”, “Sản xuất than chống Mỹ cứu nước”, “Vì Miền Nam ruột thịt”, “Mùa Xuân thắng Mỹ”,…Đội ngũ công nhân Mỏ ngày càng lớn mạnh và trưởng thành, lập nhiều thành tích to lớn, chiến công oanh liệt. Trong những năm chống Mỹ, vùng mỏ đã có 4 đơn vị, 11 công nhân viên chức được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, hàng nghìn tổ sản xuất đạt danh hiệu Tổ Lao động XHCN.

Đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH, ngày 10/10/1994, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 563/TTg thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam (TVN) - một trong 3 Tổng Công ty (Than - Điện lực - Dầu khí) hoạt động theo mô hình Tổng Công ty 91, dưới sự quản lý, điều hành trực tiếp của Chính phủ với nhiệm vụ chính là sản xuất - kinh doanh than theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước, cung ứng than cho nhu cầu của các ngành kinh tế trong nước; đầu tư xây dựng và vận hành các nhà máy nhiệt điện; sửa chữa, chế tạo cơ khí; sản xuất, cung ứng vật liệu nổ công nghiệp; thương mại và dịch vụ và một số ngành nghề kinh doanh khác.

Ngay từ khi mới ra đời năm 1995, TVN đã phải vượt qua nhiều khó khăn do nạn khai thác, kinh doanh trái phép hoành hành; môi trường vùng mỏ bị tàn phá khốc liệt; giá bán than trong nước thấp hơn giá thành dẫn tới mất cân đối tài chính, công nhân thiếu việc làm, đời sống khó khăn. TVN đã đề ra hàng loạt  giải pháp: tổ chức lại mô hình sản xuất; mở mang nhiều ngành sản xuất - kinh doanh mới; thống nhất quản lý thị trường tiêu thụ than;... Đây cũng là giai đoạn TVN tập trung cao độ đầu tư về kỹ thuật và công nghệ cho các ngành sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác hầm lò. Ngày 12/5/2001, Tổng Công ty Cơ khí năng lượng và mỏ được sáp nhập vào TVN đã làm “hồi sinh” ngành Cơ khí mỏ tạo thêm sức mạnh mới cho ngành cơ khí sửa chữa và cơ khí chế tạo của TVN. Giai đoạn này, TVN đã xác định “Xây dựng Than Việt Nam trở thành Tập đoàn kinh tế đa ngành trên nền sản xuất than”.

“Phát triển kinh tế đa ngành trên nền sản xuất than” cũng chính là chiến lược phát triển bao trùm suốt một thập niên. Kết quả là: năm 1994, sản lượng than nguyên khai mới chỉ ở mức 7 triệu tấn, 10 năm sau - tức 2005, chỉ số này đã đạt tới 31,3 triệu tấn vượt chỉ tiêu mà quy hoạch phát triển ngành Than đề ra cho năm 2020.

Ngày 08/8/2005, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 198/QĐ-TTg thành lập Tập đoàn Than Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại Tổng Công ty Than Việt Nam và các đơn vị thành viên; đây cũng là Tập đoàn kinh tế Nhà nước đầu tiên được thành lập. Bốn tháng sau, ngày 26/12/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg thành lập Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) trên cơ sở Tập đoàn Than Việt Nam và Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp với bốn nhiệm vụ chính là: Tập trung đầu tư, huy động các nguồn lực hình thành các nhóm công ty quy mô lớn trong các ngành, các lĩnh vực then chốt, phát triển, nâng cao sức cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế; Giữ vai trò bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành, các lĩnh vực khác trong toàn bộ nền kinh tế; Thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành phần kinh tế khác; Tăng cường quản lý, giám sát có hiệu quả đối với nguồn vốn, tài sản Nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn.

Bối cảnh đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay, tiếp tục đặt ra cho TKV nhiệm vụ vinh quang nhưng cũng đầy khó khăn, thách thức như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng nói “Ngành sản xuất than cũng như quân đội đánh giặc”. Do vậy mỗi người thợ mỏ cũng phải là “chiến sỹ” trên mặt trận sản xuất than, khoáng sản. Với ý chí, nghị lực, truyền thống văn hóa “Kỷ luật và Đồng tâm” và tình giai cấp của công nhân Mỏ, cùng với sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành Trung ương, các địa phương, nhất định TKV sẽ vượt qua được những khó khăn thách thức và thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển bền vững của Tập đoàn. 

Thứ hai, phát huy cao độ giá trị cốt lõi của người thợ Mỏ là “Kỷ luật và đồng tâm”

Giá trị cốt lõi “Kỷ luật và đồng tâm” được ra đời vào cuộc tổng bãi công của hơn ba vạn thợ mỏ, bắt đầu từ Cẩm Phả vào đêm 12 rạng sáng 13 tháng 11 năm 1936. Cuộc tổng bãi công đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, có ý nghĩa rất to lớn, tiêu biểu cho phong trào cách mạng nước ta thời kỳ 1936 - 1939. Thắng lợi của cuộc tổng bãi công đã để lại bài học sâu sắc về tinh thần “Kỷ luật và đồng tâm”, về tập hợp lực lượng; về sự đùm bọc tương thân, tương ái của những người cùng cảnh ngộ, cùng nghề nghiệp, cùng giai cấp, về tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường bất khuất và là niềm tự hào của các thế hệ công nhân mỏ. Truyền thống đó cho đến ngày hôm nay được đúc kết là những giá trị tinh thần, hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài của công nhân mỏ và đã thành nét đặc sắc được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Không thể quên những thợ mỏ Mông Dương sửa chữa máy bơm trong đường lò -97,5m sau trận mưa lũ “lịch sử” hồi cuối tháng 7/2015. Đó là những ngày khó khăn khi trận mưa lụt lịch sử nhấn chìm mỏ than Mông Dương trong biển bùn, nước, hàng nghìn công nhân đứng trước nguy cơ mất việc làm. Tuy nhiên, thay vì bỏ mỏ, thợ lò Mông Dương vẫn đoàn kết, chia sẻ với lãnh đạo đơn vị, đồng tâm hiệp lực cứu mỏ, hồi sinh diện sản xuất trong thời gian sớm nhất. Sự kiên trung của thợ mỏ Mông Dương đã được TKV đề cao, tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong ngành than - khoáng sản. Thợ lò Nguyễn Văn Kiên (Phân xưởng Khai thác 7, Công ty CP Than Mông Dương), chia sẻ: Bài học ý nghĩa nhất mà chúng tôi rút ra trong sự cố ngập mỏ năm ấy là kỷ luật và đồng tâm. Chỉ có kỷ luật và đồng tâm, chúng tôi mới có đủ sức mạnh để bám trụ đến cùng với mỏ, thần tốc hồi sinh diện sản xuất trong thời gian sớm nhất. Đây chính là biểu hiện sinh động và thực tế của tinh thần “Kỷ luật và đồng tâm”, kỷ luật bắt buộc đối với mọi người cùng hành nghề làm mỏ, từ công nhân mới vào nghề đến giám đốc, tổng giám đốc. Mỗi người đều phải rèn luyện bản thân để có tay nghề cao và tự giác chấp hành kỷ luật, cốt sao giảm tối đa sự tổn thất trong quá trình sản xuất” - Ông Đoàn Văn Kiển - nguyên Tổng Giám đốc TKV nhận định. 

Hay câu chuyện về ý chí của những người thợ mỏ Hà Lầm trong công cuộc khai sơn, phá thạch, lần đầu tiên đặt chân xuống độ sâu -400m của dự án khai thác than bằng lò giếng đứng đã chứng minh sức mạnh văn hóa kỷ luật và đồng tâm của ngành than. Khi đào lò ở độ sâu này, thợ mỏ Hà Lầm phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Điều kiện địa chất có nhiều biến động, cấu trúc địa tầng phúc tạp hơn so với tài liệu thăm dò. Các gương lò đào có tiết diện thi công lớn, mức đào liên tục xuống sâu, đi xa, khiến công tác vận tải người và vật liệu vô cùng vất vả. Khó là vậy, nhưng bằng ý chí và quyết tâm của những thợ mỏ Hà Lầm, dự án đã thành công như mong đợi. Trong dây chuyền sản xuất, công đoạn sau phải khớp với công đoạn trước, người này phụ thuộc vào người kia, nhìn nhau mà làm, tránh sơ suất, sai sót. Muốn giữ được an toàn, bắt buộc thợ mỏ phải rất cẩn trọng trong từng đường đi, nước bước, trong mỗi thao tác cụ thể. Nghĩa là bắt buộc phải chấp hành một cách nghiêm ngặt biện pháp kỹ thuật an toàn, quy trình sản xuất và mệnh lệnh của người chỉ huy, chẳng khác gì người chiến sĩ chiến đấu ngoài chiến trường. Từ khâu lập kế hoạch, phương án mở vỉa khai thác, cung ứng vật tư thiết bị, khoan nổ mìn, đào chống lò, hay bốc xúc đất đá trên tầng lộ thiên, vận tải than, chế biến, đến tiêu thụ... đều cần tinh thần kỷ luật và đồng tâm. Thấm nhuần văn hóa kỷ luật và đồng tâm, thợ mỏ ngành than đã phát huy được sức mạnh để tự mình vượt qua những biến cố trong nghề.

Trong suốt chiều dài lịch sử, biết bao giá trị truyền thống tốt đẹp của công nhân Mỏ đã được hun đúc trở thành lương tâm, danh dự và rất đáng tự hào của mỗi người lao động TKV. Đó là truyền thống yêu nước nồng nàn; truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm; truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa; truyền thống cần cù lao động; truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo; truyền thống hiếu thảo cũng như những giá trị truyền thống về văn hóa, về nghệ thuật khác… Truyền thống tốt đẹp của công nhân Mỏ vô cùng quý giá, không chỉ có ý nghĩa trong quá khứ mà cả trong hiện tại và tương lai.

Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, thợ mỏ ngành than đã thấm nhuần tinh thần kỷ luật và đồng tâm, biến nó thành sức mạnh để chinh phục những giới hạn của công nghệ sản xuất trong thời kỳ phát triển nền kinh tế tri thức, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, vừa đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp, vừa đảm bảo lợi ích của người lao động và đóng góp vào phát triển chung của cộng đồng.

“Từ tài nguyên khoáng sản và nguồn nhân lực đi lên giàu mạnh” là phương châm chiến lược của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam là. Do đó, xây dựng đội ngũ cán bộ, công nhân Mỏ có chất lượng cao (Công nhân giỏi nghề, có tác phong công nghiệp và ý thức tổ chức kỷ luật cao; cán bộ có tâm, tận tụy, năng động sáng tạo, thạo việc), đủ về số lượng với cơ cấu hợp lý phù hợp với yêu cầu của các ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh và của các đơn vị thành viên là một trong hai nhiệm vụ trọng tâm mang tính chiến lược của TKV. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là nguồn lực “nội sinh” quan trọng cho quá trình phát triển.

Ưu tiên đãi ngộ những người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, làm việc ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn ở trong và ngoài nước; xây dựng các cơ sở văn hóa, thể thao, phúc lợi phục vụ người lao động và cộng đồng; duy trì và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống ngành Than - Khoáng sản và văn hóa doanh nghiệp hiện đại; xây dựng và quảng bá rộng rãi thương hiệu VINACOMIN... là phương châm hành động mang tính văn hóa của các doanh nghiệp ngành than Quảng Ninh. Chăm lo cải thiện đời sống công nhân được thực hiện từ gốc rễ. Đó là đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động, phát triển đội ngũ công nhân lao động có trình độ cao, năng suất cao. Điều đó sẽ giúp cho cuộc sống vật chất và tinh thần của đoàn viên, người lao động ngày càng tốt lên; góp phần phát triển cả số lượng và chất lượng đội ngũ công nhân Mỏ, đời sống vật chất và tinh thần đều được nâng cao.

Nâng cao mức sống, đồng thời thúc đẩy quản lý hiệu quả, minh bạch, bảo vệ người lao động và bảo vệ môi trường. Đồng thời, người lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng trước mọi hành vi phân biệt đối xử chống lại việc làm của họ. Hiện nay, vấn đề đại diện, bảo vệ cho quyền lợi của người lao động được quy định rõ ràng. Đồng thời phải đề cao nghĩa vụ thương lượng, thiện chí của người sử dụng lao động khi tiến hành thương lượng tập thể với tổ chức của người lao động về tiền lương và các điều kiện lao động khác cho người lao động. Rõ ràng quan hệ lao động giữa người người sử dụng lao động và người lao động có nhiều đổi mới.

2. Mặc dù, trong nhiều thập kỷ qua, đã được đặc biệt quan tâm và đạt nhiều thành tựu to lớn trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân Mỏ; song chất lượng đội ngũ công nhân Mỏ chưa theo kịp tốc độ chung của hội nhập, kỷ nguyên số và “nền kinh tế tri thức” toàn cầu. Năng suất lao động thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới; số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nhóm có trình độ chuyên môn cao hạn chế về khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn hạn chế. Trong môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới còn là điểm yếu của công nhân Mỏ. Trong bối cảnh hiện nay, đội ngũ công nhân Mỏ phải đi lên, vượt qua mọi rào cản văn hóa để tiếp thu những kiến thức của nhân loại, sàng lọc được những giá trị văn hóa tốt đẹp để bổ sung và phát triển giá trị văn hóa truyền thống của TKV. Việc xóa bỏ rào cản sẽ là nền tảng xây dựng niềm tin, là cơ hội để mọi người mở lòng và hiểu nhau hơn sẽ dần bộc lộ những điểm mạnh và điểm yếu của bản thân, đó là lúc mọi người nhìn nhận và khắc phục cũng như phát triển bản thân hơn. Trên cơ sở đó niềm tin được xây dựng, con người dễ chịu hơn với sai lầm của nhau, từ đó tạo nên một môi trường làm việc thân thiện, tương hỗ nhau cùng nhau phát triển.

Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế của nước ta chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy lợi thế so sánh ngành và vùng lãnh thổ và ngày càng nhiều doanh nghiệp ra đời. Do vậy đòi hỏi tập thể cán bộ, công nhân lao động phải ổn định tư tưởng, tin tưởng vào chiến lược sản xuất kinh doanh của TKV và vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong Tập đoàn. Cán bộ công nhân lao động cần đoàn kết, đồng lòng phát huy truyền thống tốt đẹp “Kỷ luật, đồng tâm” đã được trui rèn qua các thế hệ thợ Mỏ để quyết tâm tiếp tục xây dựng đội ngũ thợ Mỏ mới có phẩm chất đạo đức, tri thức tốt, tay nghề cao và ý thức tự chủ, gương mẫu trong lao động sản xuất, tiếp nối truyền thống vẻ vang của cha, anh đi trước, chung ta xây dựng TKV phát triển bền vững. Truyền thống văn hóa qua nhiều thời kỳ lịch sử của TKV có ý nghĩa hết sức to lớn trong phát triển và gìn giữ bản sắc văn hóa, khẳng định nên giá trị cốt lõi, thương hiệu của thợ Mỏ. Truyền thống văn hóa của thợ Mỏ đã được hun đúc là tài sản quý của doanh nghiệp, quyết định sự trường tồn của doanh nghiệp. Đã tạo điều kiện cho tất cả các thành viên nhận ra được những sắc thái riêng mà một tổ chức muốn vươn tới. Nó cũng tạo ra sự cam kết tự nguyện đối với những gì vượt ra ngoài phạm vi niềm tin và giá trị của mỗi cá nhân, giúp các thành viên mới nhận thức được ý nghĩa của các sự kiện và hoạt động của tổ chức.

Phát huy cao độ và chuyển thành sức mạnh vật chất thời kỳ hội nhập và phát triển, người và văn hóa TKV luôn có sự liên hệ với cội nguồn truyền thống. Truyền thống là những kinh nghiệm đấu tranh sinh tồn của người thợ Mỏ đã được đúc kết thành các giá trị và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống bao gồm tất cả các lĩnh vực, nhưng tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực văn hóa. Trong cuộc đấu tranh sinh tồn của người thợ Mỏ, truyền thống có ý nghĩa vô cùng to lớn: vừa là nguồn sống vừa là nguồn sáng tạo của TKV. Vì thế, truyền thống không phải là những vật trưng bày trong viện bảo tàng, mà nó luôn tồn tại trong mối quan hệ quá khứ với hiện tại và tương lai. Chúng ta phải nhìn nhận truyền thống từ quá khứ hiện tại và tương lai thì mới thực hiện thành công trong đổi mới và phát triển bền vững Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoảng sản Việt Nam.

Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, giá trị văn hóa phi vật thể tinh thần kỷ luật và đồng của những người thợ mỏ đã góp phần tô điểm, làm sinh động văn hóa giai cấp công nhân Việt Nam. Đây là tài sản tinh thần vô giá - văn hóa phi vật thể, nhưng đã có sức mạnh to lớn làm nên lịch sử và tầm vóc của giai cấp công nhân mỏ cũng như cả Vùng mỏ anh hùng. “Kỷ luật và đồng tâm” là sự biểu hiện tập trung, đầy đủ nhất về bản chất cách mạng, bản lĩnh đấu tranh đặc sắc về phương thức, phương pháp tập hợp lực lượng tạo nên sức mạnh to lớn, mạnh mẽ của đội ngũ thợ mỏ. Tinh thần “Kỷ luật và đồng tâm” được người thợ mỏ thể hiện trong nhiều khía cạnh của cuộc sống, sản xuất. Truyền thống đó đã hiện thực hóa thành sức mạnh vật chất làm nên những thắng lợi vẻ vang của tỉnh Quảng Ninh.

Tóm lại, sự hội tụ của nhiều vùng văn hóa khác nhau trên Vùng mỏ đã thực sự mang lại những nét văn hóa đặc sắc của thợ mỏ, văn hóa ngành Than, một yếu tố căn cốt để hình thành văn hóa Quảng Ninh đa dạng trong thống nhất. Đó vừa là di sản văn hóa lại vừa là tài sản có thể phát huy giá trị trong đời sống xã hội thời kỳ mới hiện nay./.