Vùng đất Quảng Ninh - hơn nửa thế kỷ dựng xây và phát triển
Quảng Ninh có vị trí ở địa đầu đông bắc Việt Nam, lãnh thổ trải theo hướng đông bắc - tây nam. Quảng Ninh nằm cách thủ đô Hà Nội 125 km về phía Đông Bắc.Quảng Ninh tiếp giáp: Phía bắc giáp Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc. Phía đông và nam giáp Vịnh Bắc Bộ. Phía tây nam giáp tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng. Phía tây bắc giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh Lạng Sơn Các điểm cực của tỉnh Quảng Ninh: Điểm cực đông phần đất liền và hải đảo tại: mũi Sa Vĩ, phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái. Điểm cực tây tại: thôn 1, xã Nguyễn Huệ, thị xã Đông Triều. Điểm cực nam tại: đảo Hạ Mai, xã Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn. Điểm cực bắc tại: thôn Mỏ Toòng, xã Hoành Mô, huyện Bình Liêu. Quảng Ninh là 1 trong số 7 tỉnh thành tại Việt Nam có đường biên giới với Trung Quốc, là tỉnh duy nhất có cả đường biên giới trên bộ và trên biển với Trung Quốc.
Quảng Ninh có đa dạng các loại địa hình từ đồng bằng, vùng núi, ven biển... Là tỉnh miền núi, trung du nằm ở vùng duyên hải, với hơn 80% đất đai là đồi núi. Trong đó, có hơn 2.000 hòn đảo núi đá vôi nổi trên mặt biển, phần lớn chưa được đặt tên. Địa hình của tỉnh đa dạng có thể chia thành 3 vùng, gồm có vùng núi, vùng trung du và đồng bằng ven biển, và vùng biển và hải đảo.
Quảng Ninh - địa phương giàu tài nguyên,khoáng sản
Về tài nguyên đất, Quảng Ninh có quỹ đất dồi dào, trong đó, 10% là đất nông nghiệp, đất có rừng chiếm 38%, 43,8% là diện tích chưa sử dụng tập trung ở vùng miền núi và ven biển, còn lại là đất chuyên dùng và đất ở.Với ưu thế của tỉnh miền núi, ven biển, khí hậu ẩm rất thuận lợi cho quá trình sinh trưởng, tỉnh phát triển các loài cây lấy gỗ, lấy nhựa như thông nhựa, thông mã vĩ, keo, bạch đàn... Đặc biệt, với đặc thù điều kiện lập địa trên diện tích đất đồi núi của tỉnh rất thích hợp với các loài cây gỗ quý, đặc sản, cây dược liệu, các loài cây mang tính bản địa.
Về tài nguyên rừng, tổng diện tích rừng và đất rừng là 243.833,2 ha, chiếm 38% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng 80%, còn lại là rừng trồng, rừng đặc sản khoảng 100.000 ha, đất thành rừng khoảng 230.000 ha, là điều kiện để phát triển thành các vùng nông nghiệp, vùng cây đặc sản, cây ăn quả có quy mô lớn.
Về tài nguyên biển, Quảng Ninh có thế mạnh và tiềm năng to lớn để phát triển các ngành kinh tế biển, có chiều dài đường ven biển lớn thứ hai 250 km với 2.077 hòn đảo, chiếm 2/3 số đảo của cả nước, trong đó trên 1.000 đảo đã có tên; có ngư trường rộng lớn trên 6.100 km², là nơi sinh sống của vô vàn các loài sinh vật biển quý hiếm. Ven biển Quảng Ninh có nhiều khu vực nước sâu, kín gió là lợi thế đặc biệt quan trọng thuận lợi cho việc xây dựng, phát triển hệ thống cảng biển đặc biệt là cảng nước sâu tiếp nhận được tàu có trọng tải lớn và cảng thủy nội địa, nhất là ở thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả, huyện Tiên Yên, thành phố Móng Cái và huyện Hải Hà đáp ứng cho việc giao lưu hàng hóa với các tỉnh trong vùng.
Về khoáng sản, nổi bật là than đá, với trữ lượng khoảng 3,6 tỷ tấn (43,8%), chiếm tới 95% trữ lượng than trên toàn Việt Nam, phần lớn tập trung tại 3 khu vực: Hạ Long, Cẩm Phả và Uông Bí - Đông Triều; mỗi năm cho phép khai thác khoảng 30 - 40 triệu tấn. Các mỏ đá vôi, đất sét, cao lanh: Trữ lượng tương đối lớn, phân bố rộng khắp các địa phương trong tỉnh như: Mỏ đá vôi ở Hạ Long, Cẩm Phả; Các mỏ cao lanh ở các huyện miền núi Hải Hà, Bình Liêu, Ba Chẽ, Tiên Yên, thành phố Móng Cái; các mỏ đất sét phân bố tập trung ở Đông Triều và Hạ Long là nguồn nguyên liệu quan trọng để sản xuất vật liệu xây dựng cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Các mỏ nước khoáng: Có nhiều điểm nước khoáng uống được ở Quang Hanh (Cẩm Phả), Khe Lạc (Tiên Yên), Đồng Long (Bình Liêu). Ngoài ra, còn có nguồn nước khoáng không uống được tập trung ở Cẩm Phả có nồng độ khoáng khá cao, nhiệt độ trên 35 °C, có thể dùng chữa bệnh.
Về lịch sử- văn hóa, Quảng Ninh là cái nôi văn hóa Soi Nhụ. Thời kỳ tiền sử ở Quảng Ninh sớm nhất được biết đến tại các địa điểm thuộc văn hóa Soi Nhụ. Vào thời kỳ của các văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn từ khoảng 18.000 năm về trước, mực nước Biển Đông hạ thấp tới độ sâu 110 - 120 mét dưới mực nước biển ngày nay. Khi đó vịnh Bắc Bộ (gồm cả vịnh Hạ Long) là một đồng bằng tam giác châu rộng lớn. Trên vùng đất khoảng vài nghìn km2 của Quảng Ninh và khu vực vịnh Hạ Long ngày nay là một đồng bằng cổ. Ở nơi này đã từng tồn tại một cộng đồng dân cư tiền sử lớnsống trong các hang động đá vôi trên một địa bàn độc lập so với các cư dân Hòa Bình - Bắc Sơn cùng thời. Họ đã sáng tạo ra một nền văn hóa tồn tại song song với hai nền văn hóa kia mà ngày nay chúng ta gọi đây là nền văn hóa Soi Nhụ, làm cơ sở để các loại hình văn hóa tiến bộ mới hình thành tại Cái Bèo, tiếp sau nền văn hóa Hạ Long nổi tiếng.
Về danh lam thắng cảnh,Quảng Ninh là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu Việt Nam, giàu tiềm năng du lịch, sở hữu nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Vịnh Hạ Long: di sản thiên nhiên thế giới, có diện tích 1.553 km² với 1.969 đảo. Trong đó, khu di sản thế giới 3 lần được UNESCO công nhận có diện tích trên 434 km² với 788 đảo, có giá trị đặc biệt về văn hoá, thẩm mĩ, địa chất, sinh học và kinh tế. Trên vịnh có nhiều đảo đất, hang động, bãi tắm, cảnh quan đẹp thuận lợi cho phát triển nhiều điểm, nhiều hình thức du lịch hấp dẫn. Vịnh Bái Tử Long nằm liền với vịnh Hạ Long ở phía bắc với nhiều đảo đá trải dài ven biển có vẻ đẹp hoang sơ cùng với các bãi tắm tại các đảo, như Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng...(Vân Đồn). Hàng chục bãi tắm bãi tắm đẹp hiện đại như Trà Cổ (Móng Cái), Bãi Cháy, đảo Tuần Châu được cải tạo, nâng cấp với nhiều loại hình dịch vụ phục vụ đa dạng các nhu cầu của du khách. Đảo Cô Tô (phía đông bắc Quảng Ninh). Các bãi tắm đẹp như Hồng Vàn, Bắc Vàn, Vàn Chảy, đảo Cô Tô Con. Được đánh giá là những bãi biển đẹp nhất tại phía bắc.
Về di tích lịch sử, Quảng Ninh có hồ nước nhân tạo (hồ Yên Lập) - nơi có di tích chùa Lôi Âm; Bãi cọc Bạch Đằng thuộc thị xã Quảng Yên (tiếp giáp với Hải Phòng); Thương cảng Vân Đồn với trận thủy chiến chống quân Nguyên Mông (nay thuộc khu vực đảo Quan Lạn và Minh Châu, huyện Vân Đồn); Khu quần thể di tích lăng các vua Trần, nơi ở của tổ tiên Vương triều Trần trước khi di cư xuống vùng Thái Bình, Thiên Trường thuộc địa phận thị xã Đông Triều; Núi Yên Tử, nơi phát tích thiền phái Trúc Lâm do phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập (thành phố Uông Bí). Hiện nay Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc thuộc 3 tỉnh Bắc Giang, Hải Dương và Quảng Ninh đã được UNESCO công nhận di sản thế giới. Ngoài ra, tỉnh có gần 500 di tích lịch sử, văn hóa, nghệ thuật... gắn với nhiều lễ hội truyền thống, trong đó có những di tích như miếu Tiên Công, đình Phong Cốc (TX Quảng Yên), đền Cửa Ông (Cẩm Phả), Đình Trà Cổ (Móng Cái), chùa Long Tiên (TP Hạ Long), Đệ tứ chiến khu Đông Triều, chùa Ba Vàng (Uông Bí), đình Quan Lạn, chùa Cái Bầu - Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm (Vân Đồn)… Đây là những điểm thu hút khách thập phương đến với các loại hình du lịch văn hóa, tôn giáo, nhất là vào những dịp lễ hội.
Về các lễ hội truyền thống,Quảng Ninh có hàng trăm di sản văn hoá phi vật thể thuộc bảy loại hình: Lễ hội truyền thống (77 di sản), nghề thủ công truyền thống (25 di sản), nghệ thuật trình diễn dân gian (22 di sản), ngữ văn dân gian (14 di sản), tập quán xã hội (168 di sản), tiếng nói chữ viết (7 di sản), tri thức dân gian (50 di sản). Trong đó có 4 di sản đã được đưa vào danh mục Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia, gồm: Nghi lễ then cổ của người Tày (Bình Liêu), hát nhà tơ - hát (múa) cửa đình, lễ hội đền Cửa Ông (Cẩm Phả), lễ hội miếu Tiên Công (Quảng Yên)…
Quảng Ninh - trung tâm phát triển năng động, toàn diện,cực tăng trưởng khu vực phía Bắc
Hiện, tỉnh Quảng Ninh có 13 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 4 thành phố; cùng với Bình Dương là một trong hai tỉnh có nhiều thành phố trực thuộc nhất Việt Nam. Tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh đến năm 2022 đạt 68,5% và là một trong 5 địa phương có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất cả nước.
Quảng Ninh là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía bắc đồng thời là một trong bốn trung tâm du lịch lớn của Việt Nam với di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long đã ba lần được UNESCO công nhận. Quảng Ninh hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ năm 2017 tới 2022, Quảng Ninh là tỉnh liên tục 6 lần có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI đứng thứ 1 ở Việt Nam.
Quảng Ninh là trung tâm lớn nhất Việt Nam về tài nguyên than đá, công nghiệp điện, cơ khí, xi măng, vật liệu xây dựng; có số lượng công nhân mỏ đông nhất cả nước, có nhiều khu công nghiệp: Khu công nghiệp Cái Lân, Khu công nghiệp Việt Hưng,Khu công nghiệp phụ trợ ngành than, Khu công nghiệp Hải Yên,Khu công nghiệp Phương Nam, Khu công nghiệp Đông Triều, Khu công nghiệp Đông Mai, Khu công nghiệp Việt Hưng, Khu công nghiệp Hải Hà, Khu công nghiệp ven biển Tiền Phong,…do đó, đây là thị trường đầy tiềm năng cho các nhà cung cấp, phân phối hàng hóa.
Về thương mại, Quảng Ninh là địa bàn có tiềm năng lớn để phát triển hoạt động thương mại dịch vụ, nhất là thương mại qua biên giới và thương mại qua đường biển. Tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ thương mại đã đạt trung bình trên 13%/năm. Những năm gần đây, Quảng Ninh đang nỗ lực tạo bước phát triển đột phá để trở thành tỉnh đi đầu trong cả nước về đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”. Hàng loạt các dự án trọng điểm, các giải pháp sáng tạo trong điều hành đã và đang được triển khai tạo động lực quan trọng giúp Quảng Ninh bứt phá trong phát triển toàn diện và hình thành ngành dịch vụ chuyên nghiệp, chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế. Bên cạnh việc đầu tư nâng cấp các chợ truyền thống thì hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại trên địa bàn tỉnh đã được tăng cường. Để thu hút đầu tư vào lĩnh vực này, tỉnh đã tạo điều kiện tối đa về mặt bằng, về thủ tục hành chính và luôn đồng hành cùng nhà đầu tư trong suốt quá trình triển khai dự án. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành hệ thống hơn 30 trung tâm, cửa hàng, điểm giới thiệu sản phẩm OCOP và hầu hết sản phẩm OCOP của tỉnh đã được trưng bày, giới thiệu tại các địa điểm này. Nhiều sản phẩm OCOP của tỉnh không những được người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh biết đến mà còn được du khách nước ngoài quan tâm, biết đến, như: Đồ gốm sứ Quang Vinh, ngọc trai Hạ Long, ghẹ lột Móng Cái..
Năm 2019, dân số tỉnh Quảng Ninh đạt 1.324.800 người, với diện tích 6.178,2 km² thì mật độ dân số là 214 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị là 853.700 người, chiếm 64,4% dân số toàn tỉnh. Quảng Ninh hiện là một trong số các địa phương có mức độ đô thị hóa cao nhất Việt Nam, vượt xa cả thủ đô Hà Nội.
Quảng Ninh có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển và cảng hàng không với: Tỉnh lộ: 16 tuyến, tổng chiều dài 409,93 km; cao tốc: 3 tuyến, bao gồm:Cao tốc Hải Phòng - Hạ Long: 25 km; cao tốc Hạ Long - Vân Đồn: 60 km; cao tốc Vân Đồn – Móng Cái: 80 km. Hiện có 16 bến xe khách đang hoạt động, các huyện Đầm Hà, Ba Chẽ và Cô Tô chưa có bến xe khách; trong đó có 6/15 bến xe đạt loại 3 trở lên, chỉ có 03 bến xe đạt loại 1 (bến xe Bãi Cháy, bến xe Móng Cái, bến xe Cửa Ông). Về cơ bản hệ thống bến xe khách trên địa bàn tỉnh đảm bảo nhu cầu đi lại của người dân.
Quảng Ninh hiện có 213 cảng, bến gồm: 59 cảng và 103 bến hủy nội địa. Trong đó cảng hàng hóa chiếm 174; cảng bến khách chiếm 39 (12 cảng biển (Hạ Long: 6, Cẩm Phả: 3, Hoành Bồ: 2, Tiên Yên: 1); 59 cảng thủy nội địa (Hạ Long: 4, Cẩm Phả: 18, Uông Bí: 5, Móng Cái: 15, Đông Triều: 14, Quảng Yên: 1, Vân Đồn: 1, Đầm Hà: 1); 103 bến thủy nội địa (Hạ Long: 25, Cẩm Phả: 19, Uông Bí: 8, Móng Cái: 4, Đông Triều: 13, Quảng Yên: 11, Hoành Bồ: 6, Cô Tô: 3, Tiên Yên: 9, Hải Hà: 5); 4 Cảng hành khách thủy nội địa (Hạ Long: 2, Vân Đồn: 1, Cô Tô: 1); 35 bến khách thủy nội địa (Hạ Long: 6, Cẩm Phả: 6, Móng Cái: 3, Quảng Yên: 2, Đông Triều: 5, Vân Đồn: 8, Cô Tô: 2, Hải Hà: 3),…
Tỉnh có một tuyến đường sắt cấp quốc gia đi qua dài 64,08 km kết nối từ ga Kép (Bắc Giang) đến Đông Triều, Uông Bí và Hạ Long. Thời gian đi từ Quảng Ninh đến Hà Nội hết khoảng 7 tiếng, chậm hơn nhiều so với đường bộ. Ngoài tuyến đường sắt quốc gia Kép - Hạ Long trên địa bàn còn có một số tuyến đường sắt chuyên dùng của ngành than phục vụ vận chuyển cho hai khu vực chính là vùng than Uông Bí và vùng Than Cẩm Phả.
Cảng hàng không Quốc tế Vân Đồn nằm trên địa bàn xã Đoàn Kết, huyện Vân Đồn, cách trung tâm Hạ Long 90 km.
Nhân dịp dự Lễ Kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập tỉnh Quảng Ninh, ngày 28-10-2023, đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước đã có bài phát biểu quan trọng, nhấn mạnh, “Quảng Ninh - địa đầu Tổ quốc; nơi có dòng sông Bạch Đằng, ghi dấu ấn lịch sử hào hùng của dân tộc với ba lần chiến thắng quân xâm lược. Quảng Ninh - vùng mỏ, là cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam và ngành công nghiệp khai khoáng; nơi khởi đầu của phong trào “vô sản hóa”…Trải qua những năm tháng oanh liệt xây dựng và bảo vệ quê hương, đồng bào các dân tộc Quảng Ninh và những người công nhân mỏ, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, đã xây dựng nên truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo, bất khuất, kiên cường, dũng cảm của con người và quê hương Quảng Ninh”.
Nhìn lại lịch sử đấu tranh cách mạng, ngay sau khi được thành lập (30-10-1963), Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã phát huy sức mạnh của vùng Đông Bắc rộng lớn, cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, chi viện sức người, sức của cho miền Nam đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dân Quảng Ninh bất chấp bom rơi, đạn nổ, vừa sản xuất giỏi, vừa chiến đấu thắng lợi, bảo vệ và ổn định đời sống nhân dân. Dấu ấn ngày 5-8-1964, quân và dân Quảng Ninh chiến thắng trận đầu, bắn rơi 3 máy bay, bắt sống phi công Mỹ đầu tiên trên miền Bắc, trở thành niềm tự hào to lớn của vùng Mỏ Anh hùng, lam tỏa tinh thần đấu tranh ra khắp cả nước, động viên, khích nhân dân cả nước trong công cuộc kháng chiến, cứu nước.
Trong thời kỳ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là khi bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã tiếp tục nêu cao truyền thống đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc. Một trong những dấu ấn nổi bật là đã đẩy mạnh xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại. Kiến tạo không gian và các hành lang phát triển mới.
Quảng Ninh cũng là tỉnh sớm xác định gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tỉnh đã sớm ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh. Trong xây dựng nông thôn mới, Quảng Ninh đã hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới ở cả 3 cấp; về đích trước 3 năm chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. Quảng Ninh đã vươn lên trở thành một trong những tỉnh đi đầu trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng Bắc Bộ và khu vực phía Bắc.
Trong thời kỳ phát triển mới, tuy có nhiều thuận lợi, thời cơ lớn, nhưng cũng có nhiều khó khăn, thách thức, một số cán bộ, đảng viên có sai phạm, bị xử lý theo quy định của Đảng và pháp luật; nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của tỉnh; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực, nhất là quản lý tài nguyên, khoáng sản, đầu tư công, bảo vệ di sản, di tích…có mặt còn hạn chế; tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật còn diễn biến phức tạp. Hoạt động sản xuất, kinh doanh, lao động, việc làm của một số doanh nghiệp còn khó khăn…, nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Ninh tiếp tục đặt mục tiêu xây dựng, phát triển Quảng Ninh trở thành tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại; là một trung tâm phát triển năng động, toàn diện; trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước./.
Nét văn hóa vùng mỏ xưa và nay  (30/09/2023)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên