Thực tiễn phát triển kinh tế di sản ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, còn khá nhiều điểm nghẽn về chính sách về pháp luật để huy động nguồn lực xã hội. Đặc biệt cần cụ thể hóa cơ chế, chính sách để huy động nguồn lực từ tư nhân, doanh nghiệp ngoài nhà nước cùng tham gia quá trình bảo tồn và phát triển Di sản văn hóa. Việc có những chính sách phù hợp để huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển nền kinh tế này là cần thiết.
Nguồn lực và khả năng huy động các nguồn lực
Nguồn lực (resources) là các yếu tố cần thiết để thực hiện một nhiệm vụ, dự án hoặc đạt được mục tiêu cụ thể. Các nguồn lực có thể bao gồm các yếu tố vật chất, tài chính, con người, thông tin và thời gian. Theo Đoàn Minh Huấn: Nguồn lực là toàn bộ tài sản, tài nguyên, sức mạnh vốn có sẵn sàng đưa vào sử dụng hoặc dự trữ để phục vụ cho sản xuất và đời sống con người. Đối với một quốc gia, một địa phương, hoặc một doanh nghiệp, nguồn lực được hiểu là toàn bộ tài nguyên thiên nhiên, tài sản quốc gia, vị trí địa lý, quy mô thị trường, vốn, trình độ khoa học - công nghệ, sức mạnh văn hóa, con người, thể chế chính trị... tạo lợi thế, sức cạnh tranh của quốc gia, của địa phương, của doanh nghiệp trong quản lý và phát triển(1).
Trong quản lý, kinh tế, và các lĩnh vực khác, hiểu rõ và quản lý hiệu quả các nguồn lực là rất quan trọng để đạt được thành công và hiệu quả. Dưới đây là các loại nguồn lực chính:
Một là, nguồn lực tài chính.
Các khoản tiền cần thiết để tài trợ cho các dự án, hoạt động hoặc doanh nghiệp. Đây có thể là vốn từ ngân sách nhà nước, vốn đầu tư từ các tổ chức, cá nhân, hoặc các nguồn tài trợ khác.
Hai là, nguồn lực con người.
Các cá nhân có kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ hoặc dự án. Điều này bao gồm các chuyên gia, nhân viên, và tình nguyện viên.
Ba là, nguồn lực vật chất.
Các tài sản vật chất như tòa nhà, máy móc, thiết bị và công cụ cần thiết cho hoạt động sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ.
Bốn là, nguồn lực thông tin.
Các thông tin, kiến thức và dữ liệu cần thiết để đưa ra quyết định, lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động.
Năm là, nguồn lực tự nhiên.
Các tài nguyên từ môi trường tự nhiên như đất đai, nước, khoáng sản và năng lượng, mà con người có thể sử dụng để sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
Sáu là, nguồn lực xã hội.
Các mối quan hệ, liên kết và mạng lưới xã hội có thể hỗ trợ trong việc tiếp cận các nguồn lực khác, xây dựng sự hợp tác và đạt được mục tiêu.
Bảy là, nguồn lực quy định và chính sách.
Các quy định pháp lý và chính sách của chính phủ hoặc các tổ chức có thể ảnh hưởng đến việc sử dụng và quản lý các nguồn lực. Các nguồn lực pháp lý có thể bao gồm các quy tắc, luật lệ và hỗ trợ từ các cơ quan chức năng.
Tám là, nguồn lực văn hóa.
Các yếu tố văn hóa và nghệ thuật như truyền thống, lễ hội, và các di sản văn hóa có thể đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các ngành nghề và dự án liên quan đến văn hóa.
Chín là, nguồn lực kỹ thuật và công nghệ.
Các công cụ công nghệ, phần mềm, và kỹ thuật hiện đại cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ hoặc cải thiện hiệu suất công việc.
Vai trò của các nguồn lực trong phát triển kinh tế di sản
Các nguồn lực đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế di sản, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, lịch sử của đất nước. Dưới đây là một số vai trò chính của các nguồn lực trong phát triển kinh tế di sản:
Nguồn lực tài chính:
Các nguồn tài chính cần thiết để thực hiện các dự án bảo tồn, phục hồi di tích và phát triển hạ tầng du lịch.
Sự hiện diện của nguồn vốn từ cả nhà nước và tư nhân giúp thu hút các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực di sản.
Nguồn lực con người:
Đội ngũ chuyên gia, nhà nghiên cứu, và nhân viên có kỹ năng giúp thực hiện các dự án bảo tồn hiệu quả hơn.
Các chương trình đào tạo giúp nâng cao nhận thức và kỹ năng cho cộng đồng về tầm quan trọng của di sản.
Nguồn lực vật chất
Các công trình như bảo tàng, trung tâm thông tin, và hệ thống giao thông giúp thu hút du khách và bảo tồn di sản.
Việc áp dụng công nghệ hiện đại trong bảo tồn và phát triển di sản giúp nâng cao hiệu quả và chất lượng công việc.
Nguồn lực thông tin
Các dữ liệu và thông tin về di sản văn hóa và lịch sử giúp nâng cao nhận thức và định hướng phát triển.
Hệ thống thông tin tốt giúp theo dõi và đánh giá hiệu quả của các dự án di sản.
Nguồn lực tự nhiên
Các danh lam thắng cảnh và tài nguyên tự nhiên có thể kết hợp với di sản văn hóa để phát triển du lịch sinh thái, tạo thêm giá trị kinh tế.
Việc duy trì môi trường tự nhiên là cần thiết để bảo vệ các di sản văn hóa gắn liền với thiên nhiên.
Nguồn lực thời gian
Thời gian cần thiết để lên kế hoạch, thực hiện và đánh giá các dự án di sản.
Cần có thời gian để nâng cao nhận thức cộng đồng về di sản văn hóa và lịch sử.
Nguồn lực xã hội
Cộng đồng địa phương đóng vai trò quan trọng trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản, tạo ra sự gắn kết và trách nhiệm.
Các mối quan hệ giữa các tổ chức, doanh nghiệp và chính quyền địa phương có thể hỗ trợ cho các dự án di sản.
Nguồn lực chính sách và pháp lý
Các chính sách bảo vệ di sản và khuyến khích phát triển kinh tế di sản giúp tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động liên quan.
Các quy định pháp lý giúp bảo vệ di sản khỏi việc khai thác bừa bãi và đảm bảo rằng các hoạt động phát triển diễn ra một cách bền vững.
Nguồn lực văn hóa
Các yếu tố văn hóa có thể tạo ra sức hấp dẫn cho du lịch, đồng thời cũng giúp duy trì bản sắc văn hóa.
Tổ chức các sự kiện văn hóa có thể thu hút du khách và tăng cường sự nhận thức về giá trị di sản.
Nguồn lực kỹ thuật và công nghệ
Sử dụng công nghệ hiện đại trong bảo tồn di sản giúp tăng cường hiệu quả và độ chính xác của các biện pháp bảo tồn.
Áp dụng công nghệ thông tin để quản lý, quảng bá và phát triển các sản phẩm di sản.
Tóm lại, các nguồn lực đóng vai trò thiết yếu trong việc phát triển kinh tế di sản, từ việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, đến việc tạo ra cơ hội việc làm và thu nhập cho cộng đồng. Sự phối hợp giữa các nguồn lực này sẽ tạo ra một hệ sinh thái bền vững cho phát triển kinh tế di sản, mang lại lợi ích cho cả cộng đồng và xã hội.
Thực trạng việc huy động và sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế di sản ở Việt Nam
Việc huy động và sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế di sản ở Việt Nam đang có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng cũng gặp phải một số thách thức. Dưới đây là thực trạng cụ thể:
Thứ nhất, về huy động nguồn lực tài chính.
Thời gian qua Nhà nước đã quan tâm ban hành nhiều cơ chế chính sách, bố trí nguồn lực tài chính để phát triển văn hóa, trong đó bao gồm nội dung bảo tồn và phát triển giá trị di sản. Thực tế cho thấy, trong những năm qua, ngân sách nhà nước đã ưu tiên bố trí cho sự nghiệp văn hóa thông tin (chi thường xuyên của trung ương và địa phương) với tốc độ tăng bình quân khoảng 10%, cao hơn tốc độ tăng chi ngân sách nhà nước (khoảng 9%), cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên ngân sách nhà nước (khoảng 7%).
Bên cạnh đó, Chính phủ đã có những chính sách và chương trình hỗ trợ tài chính cho việc bảo tồn di sản. Tuy nhiên, ngân sách cho lĩnh vực này vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng đủ nhu cầu bảo tồn và phát triển.
Còn đối với đầu tư tư nhân, mặc dù có một số dự án tư nhân tham gia vào phát triển du lịch di sản, nhưng mức độ đầu tư vẫn chưa đồng đều. Nhiều doanh nghiệp chưa nhận thấy được tiềm năng lâu dài từ các dự án này.
Thứ hai, về nguồn nhân lực.
Cả nước ta hiện có trên 40.000 di tích được kiểm kê. Trong đó UNESCO ghi danh 8 di sản văn hóa và thiên nhiên, 14 di sản văn hóa phi vật thể và 7 di sản tư liệu thế giới. Bên cạnh đó là hệ thống 179 bảo tàng lưu giữ gần 4 triệu hiện vật, với 127 hiện vật và nhóm hiện vật đã được công nhận là di sản quốc gia. Số liệu trên cho thấy nguồn lực cần để vận hành hệ thống quản lý di sản ở Việt Nam là rất lớn. Điều đó dẫn đến thực trạng nhân sự phân bổ ngành dọc theo hệ thống nhà nước, thậm chí các tổ chức bên ngoài thường không đủ để cung cấp cho công việc.
Về công tác đào tạo, hiện nay, nguồn nhân lực trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển di sản còn thiếu. Các chương trình đào tạo vẫn chưa đủ mạnh để cung cấp các chuyên gia có kỹ năng cần thiết.
Trong khi đó, sự tham gia của cộng đồng còn hạn chế. Cộng đồng địa phương chưa được tham gia đầy đủ vào các hoạt động bảo tồn, mặc dù họ là những người nắm giữ nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu.
Thứ ba, về kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất.
Về hạ tầng du lịch, một số địa điểm du lịch di sản đã được đầu tư hạ tầng, nhưng nhiều nơi vẫn thiếu cơ sở vật chất và dịch vụ cần thiết để thu hút du khách.
Về công tác bảo tồn di tích, nhiều di tích chưa được bảo trì đúng mức, dẫn đến tình trạng xuống cấp. Việc sử dụng công nghệ trong bảo tồn còn hạn chế.
Thứ tư, về nguồn lực thông tin.
Về nguồn dữ liệu: Việc thu thập và quản lý thông tin về di sản chưa được chú trọng. Nhiều dự án thiếu dữ liệu cần thiết để đưa ra quyết định.
Về quản lý các dự án: Một số dự án thiếu sự phối hợp và quản lý hiệu quả, dẫn đến lãng phí nguồn lực và không đạt được mục tiêu đề ra.
Thứ năm, về chính sách và quy định pháp lý.
Đối với khung pháp lý, mặc dù có nhiều quy định và chính sách bảo vệ di sản, nhưng việc thực thi vẫn chưa mạnh mẽ. Nhiều di sản vẫn bị đe dọa bởi hoạt động xây dựng và phát triển không bền vững.
Sau hơn 20 năm Luật Di sản văn hóa được ban hành và hơn 10 năm được sửa đổi, bổ sung, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm, ngày càng được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân ở khắp mọi miền đất nước. Nhờ đó, hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ngày càng hiệu quả, với những thành tựu đáng ghi nhận. Việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa là hết sức cần thiết nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về văn hóa, di sản văn hóa; đồng thời để bắt kịp sự vận động và biến chuyển của xã hội, điều chỉnh, cụ thể hóa được những vấn đề còn vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi nhất cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Về các chính sách khuyến khích đầu tư, có thể thấy, chính sách khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực di sản vẫn chưa đủ hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư.
Thứ sáu, sự tham gia của xã hội.
Về nhận thức cộng đồng: Nhận thức về giá trị di sản văn hóa trong cộng đồng chưa được nâng cao. Nhiều người dân vẫn chưa thấy được lợi ích từ việc bảo tồn di sản.
Sự tham gia của các tổ chức xã hội: Các tổ chức xã hội và phi chính phủ có thể đóng góp lớn cho công tác bảo tồn nhưng vẫn chưa được huy động đầy đủ.
Thứ bảy, về hợp tác quốc tế.
Những hỗ trợ từ quốc tế: Việt Nam đã nhận được hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, nhưng việc áp dụng các kinh nghiệm và công nghệ từ nước ngoài trong lĩnh vực này còn hạn chế.
Tham gia các chương trình quốc tế: Việc tham gia vào các chương trình và dự án quốc tế chưa được mở rộng, gây cản trở cho việc phát triển kinh tế di sản.
Việc huy động và sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế di sản ở Việt Nam còn nhiều thách thức nhưng cũng đầy tiềm năng. Để phát triển bền vững, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, doanh nghiệp, cộng đồng và các tổ chức quốc tế nhằm tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực hiện có, bảo tồn giá trị văn hóa và lịch sử, đồng thời phát triển kinh tế địa phương.
Để huy động tối đa nguồn lực cho phát triển kinh tế di sản ở Việt Nam
Để phát triển kinh tế di sản ở Việt Nam một cách bền vững, việc huy động và khai thác nguồn lực hiệu quả là rất quan trọng. Dưới đây là các nguồn lực chính cần được tận dụng:
Thứ nhất, huy động tối đa và hiệu quả các nguồn lực tài chính.
Đối với ngân sách nhà nước: Sử dụng hiệu quả các khoản đầu tư từ ngân sách nhà nước cho việc bảo tồn và phát triển di sản, bao gồm việc sửa chữa, bảo trì di tích và phát triển kết cấu hạ tầng du lịch.
Đối với Quỹ Bảo tồn di sản: Các quỹ bảo tồn di sản do chính phủ hoặc các tổ chức phi chính phủ thành lập để hỗ trợ các dự án bảo tồn và phục hồi. Cần có định hướng và chính sách hỗ trợ cho hoạt động các quỹ này.
Đối với đầu tư từ khu vực tư nhân: Khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân và doanh nghiệp tham gia vào việc phát triển di sản thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp, hợp tác công - tư, và các hình thức tài trợ.
Thứ hai, đối với các nguồn lực từ con người.
Về phía các chuyên gia bảo tồn: Sử dụng các chuyên gia và nhà nghiên cứu trong lĩnh vực bảo tồn di sản, khảo cổ học, và nghiên cứu văn hóa để thực hiện các dự án bảo tồn và phục hồi.
Đối với ngành du lịch: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch, bao gồm hướng dẫn viên du lịch, nhân viên khách sạn, và các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch di sản.
Về phía cộng đồng địa phương: Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương trong việc bảo tồn di sản, thông qua các chương trình đào tạo và hoạt động cộng đồng.
Thứ ba, đối với nguồn lực kỹ thuật và công nghệ.
Sử dụng công nghệ tiên tiến trong việc bảo trì và phục hồi di tích, như công nghệ quét 3D, phân tích hóa học, và công nghệ vật liệu mới.
Đầu tư vào kết cấu hạ tầng cần thiết cho việc phát triển du lịch di sản, như hệ thống giao thông, dịch vụ lưu trú, và các tiện ích công cộng.
Thứ tư, nguồn lực tư nhiện và văn hóa.
Đối với các di sản văn hóa: Khai thác và phát huy giá trị của các di tích lịch sử, công trình kiến trúc, và các truyền thống văn hóa đặc sắc của các dân tộc tại Việt Nam.
Đối với các danh lam thắng cảnh: Tận dụng các danh lam thắng cảnh và tài nguyên thiên nhiên phong phú để phát triển du lịch sinh thái và khám phá.
Thứ năm, hoàn thiện thể chế, chính sách để thu hút vốn đầu tư trong xã hội.
Sử dụng các chính sách và chương trình hỗ trợ của chính phủ nhằm thúc đẩy bảo tồn và phát triển di sản, như ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính, và các quy định bảo vệ di sản.
Xây dựng và thực thi khung pháp lý rõ ràng để bảo vệ di sản và quản lý các hoạt động liên quan đến di sản.
Thứ sáu, tận dụng tối đa các nguồn lực quốc tế.
Tận dụng sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế như UNESCO, các tổ chức phi chính phủ quốc tế và các chương trình hợp tác quốc tế trong việc bảo tồn di sản.
Tham gia vào các dự án hợp tác quốc tế về bảo tồn di sản, học hỏi kinh nghiệm và nhận sự hỗ trợ tài chính từ các tổ chức quốc tế.
Thứ bảy, tạo cơ chế, môi trường thuận lợi cho huy động các nguồn lực xã hội.
Các doanh nghiệp xã hội có thể tham gia vào việc bảo tồn và phát triển di sản thông qua các sáng kiến cộng đồng và đầu tư vào các dự án di sản.
Hỗ trợ các khởi nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp nhỏ trong việc phát triển sản phẩm và dịch vụ dựa trên di sản văn hóa.
Thứ tám, đẩy mạnh công tác truyền thông và quảng bá hình ảnh.
Sử dụng các kênh truyền thông, mạng xã hội và các sự kiện quảng bá để nâng cao nhận thức và thu hút sự quan tâm của du khách và nhà đầu tư.
Có chiến lược marketing phù hợp: Xây dựng và triển khai các chiến lược marketing hiệu quả để quảng bá các điểm đến di sản và các sản phẩm văn hóa.
Kết luận
Việc phát triển kinh tế di sản ở Việt Nam yêu cầu sự kết hợp và tận dụng đồng bộ các nguồn lực tài chính, nhân lực, kỹ thuật, văn hóa, chính sách, và hỗ trợ quốc tế. Sự phối hợp hiệu quả giữa chính phủ, doanh nghiệp, cộng đồng và các tổ chức quốc tế sẽ giúp khai thác tối đa tiềm năng di sản văn hóa của Việt Nam, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ các giá trị di sản cho các thế hệ mai sau.
-----------------
(1) Đoàn Minh Huấn: Nguồn lực và động lực cho thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện thích ứng an toàn - Nhìn từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Tạp chí Cộng sản Điện tử, ngày 18-11-2022, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/nguon-luc-va-dong-luc-cho-thuc-day-phuc-hoi-va-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-trong-dieu-kien-thich-ung-an-toan-nhin-tu-thuc-tien-tinh-quang-ninhTăng cường vai trò của nền kinh tế xanh trong bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên ở tỉnh Quảng Ninh  (06/12/2024)
Tác động của quá trình phát triển kinh tế di sản đến cư dân ven biển tỉnh Quảng Ninh thời gian qua  (06/12/2024)
Tăng cường vai trò của báo chí trong truyền thông chính sách phát triển kinh tế di sản ở tỉnh Quảng Ninh  (06/12/2024)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay