Phát triển hợp tác xã nông nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh
TCCS - Trên cơ sở Luật Hợp tác xã (sửa đổi) năm 2012, Thành phố Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng mô hình hợp tác xã nông nghiệp tiên tiến, hiện đại dựa trên lợi thế sản xuất gắn với chuỗi liên kết, cung ứng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hiệu quả cho nông dân. Thành phố xác định, hợp tác xã kiểu mới chính là hướng phát triển tất yếu nhằm triển khai thực hiện “Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị, phát triển bền vững”, góp phần thực hiện thành công “Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố”.
Kết quả phát triển hợp tác xã nông nghiệp tại Thành phồ Hồ Chí Minh
Hiện nay, diện tích đất nông nghiệp của Thành phố là 115,7 nghìn héc-ta (chiếm khoảng 55,2% tổng diện tích đất tự nhiên), trong đó đất sản xuất nông nghiệp 67,08 nghìn héc-ta, chủ yếu tại các huyện ngoại thành. Số lao động nông thôn là 760.017 người, trong đó có khoảng 108.000 lao động nông nghiệp. Tuy nhiên do quá trình đô thị hóa, diện tích đất nông nghiệp mỗi năm đang giảm khoảng 500ha. Mặc dù mô hình kinh tế hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp hiện nay đang chiếm số lượng khá lớn và đóng góp cao cho nông nghiệp Thành phố nhưng còn bộc lộ nhiều hạn chế. Nếu Thành phố vẫn tiếp tục duy trì hình thức kinh tế hộ nông dân riêng lẻ thì ngành nông nghiệp sẽ không đủ khả năng chống chọi với sự cạnh tranh nông sản toàn cầu và tình hình biến đổi khí hậu đang diễn ra gay gắt như hiện nay. Đứng trước thực tế này, sự liên kết giữa nông dân - trang trại - hợp tác xã hay liên kết giữa hộ nông dân - trang trại - doanh nghiệp trở thành một xu thế tất yếu.
Tổng kết giai đoạn 2013 - 2019 cho thấy, Thành phố có 112 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, số lượng hợp tác xã thành lập mới là 67 hợp tác xã, bình quân thành lập mới 9 hợp tác xã/năm, tập trung chủ yếu ở 5 huyện ngoại thành của Thành phố. Các hợp tác xã hoạt động trong 10 ngành nghề như trồng nấm, sản xuất rau an toàn, hoa - cây kiểng, chăn nuôi, trồng trọt - chăn nuôi hỗn hợp, nuôi trồng thủy sản, ngành nghề nông thôn, diêm nghiệp, dịch vụ nông nghiệp và kinh doanh tổng hợp. Nguồn vốn, tài sản của các hợp tác xã nông nghiệp ngày càng tăng, tạo điều kiện thuận lợi để hợp tác xã nâng cao hiệu quả hoạt động. Nếu như năm 2005, tổng số vốn của các hợp tác xã nông nghiệp chỉ đạt hơn 107 tỷ đồng, thì đến năm 2019 là 384 tỷ đồng, bình quân 3,43 tỷ đồng/hợp tác xã. Cơ sở vật chất của các hợp tác xã cũng ngày càng được cải thiện, trong đó số diện tích trụ sở thuộc quyền sở hữu của hợp tác xã chiếm 49,9%, còn lại là đang thuê mướn, được chính quyền hỗ trợ hay tạm mượn mặt bằng của thành viên hợp tác xã. Điều này phần nào cho thấy kinh tế tập thể, hợp tác xã đang phục hồi và phát triển đúng hướng. Mô hình hợp tác xã kiểu mới rất phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, cũng như của Thành phố, vừa khuyến khích kinh tế cộng đồng thành viên hợp tác xã, vừa tôn trọng và nâng cao vị thế kinh tế hộ thành viên, góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nói chung, đồng thời, góp phần thúc đẩy kinh tế Thành phố không ngừng tăng trưởng và phát triển.
Nhiều hợp tác xã nông nghiệp đã trở thành cầu nối hiệu quả trong việc tiếp thu, hướng dẫn ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy chuyển đổi cây trồng, vật nuôi chủ lực của thành phố. Tham gia hợp tác xã, người nông dân ngoài việc được nâng cao kiến thức, tiếp nhận nhiều chương trình hỗ trợ, còn tăng thu nhập, từng bước xây dựng thương hiệu nông sản lớn mạnh. Các hợp tác xã còn tham gia chuỗi liên kết cung ứng dịch vụ đầu vào và tiêu thụ sản phẩm, từ đó tạo được nguồn cung ứng đầu vào ổn định (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật...) cho các thành viên. Nông dân được mua giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi với giá rẻ hơn; đồng thời có nơi tiêu thụ sản phẩm ổn định cả về sản lượng và giá bán.
Những hợp tác xã làm tốt khâu liên kết cung ứng đầu vào này thường thu hút nhiều thành viên tham gia. Năm 2019, số thành viên tham gia hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới là 2.551 thành viên, bình quân 23 thành viên/hợp tác xã. Hợp tác xã có số lượng thành viên nhiều nhất là 484 thành viên, số lượng thành viên ít nhất là 7 thành viên. Quy mô hợp tác xã ngày càng lớn đã tạo điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã nâng cao hiệu quả hoạt động, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho hộ thành viên, hỗ trợ đưa hộ nông dân trở thành đối tượng tham gia vào các chuỗi liên kết sản xuất bền vững, theo hướng sản xuất sản phẩm sạch, an toàn, truy xuất được nguồn gốc, giá sản phẩm đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Giá trị sản xuất, doanh thu cũng như lợi nhuận của hợp tác xã nông nghiệp tăng, từ đó tăng thu nhập của các thành viên. Năm 2004, giá trị sản xuất của các hợp tác xã nông nghiệp đạt 7,819 tỷ đồng, chỉ đóng góp 0,3% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp toàn thành phố; đến năm 2018, giá trị sản xuất của các hợp tác xã đạt 543,484 tỷ đồng, đóng góp 2,5% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp toàn Thành phố. Giá trị sản xuất của các hợp tác xã trong năm 2019 đạt 543.796 triệu đồng. Doanh thu bình quân năm 2004 chỉ đạt 297,2 triệu đồng/hợp tác xã tăng lên 5,843 tỷ đồng/hợp tác xã. Thu nhập bình quân thành viên (chỉ tính thu nhập thông qua giao dịch với hợp tác xã) là 5,5 triệu đồng/tháng. Những kết quả trên đã góp phần tích cực trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp Thành phố, tạo tiền đề để xây dựng mô hình hợp tác xã nông nghiệp tiên tiến, hiện đại, lấy lợi thế sản xuất gắn với chuỗi liên kết, cung ứng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hiệu quả cho bà con nông dân và tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng chuỗi liên kết giá trị sản phẩm nông nghiệp theo mô hình: hộ nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp.
Đạt được những thành tựu trên là do nhiều yếu tố tích cực tác động, trong đó phải kể đến: (i) Thành phố đã thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp như chính sách hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu, hỗ trợ cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng về làm việc tại hợp tác xã, hỗ trợ vốn tín dụng ưu đãi về lãi suất… Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi để hợp tác xã nông nghiệp đổi mới, phát triển; (ii) Chính quyền các cấp tại các huyện ngoại thành quán triệt, triển khai nghiêm túc quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về hợp tác xã nông nghiệp, từ đó tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã nông nghiệp thành lập và phát triển; (iii) Thành phố là địa phương có tiềm lực, có nhiều cơ sở nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, như: Khu nông nghiệp công nghệ cao, Trung tâm Công nghệ sinh học, trại trình diễn và thực nghiệm chăn nuôi bò sữa công nghệ cao...; có thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp lớn, nhất là các sản phẩm có giá trị và chất lượng cao từ sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao... đã tạo được động lực khuyến khích, thúc đẩy các hợp tác xã phát triển; (iv) Một số hợp tác xã nông nghiệp đã nắm bắt được sự thay đổi của thị trường, tính chất đặc thù của nông nghiệp đô thị của Thành phố, để từ đó từng bước phát huy nội lực, tranh thủ các điều kiện để phát triển.
Một số hạn chế
Thứ nhất, cơ sở vật chất ban đầu của các hợp tác xã nông nghiệp còn hạn chế. Vốn điều lệ của các hợp tác xã nông nghiệp có tăng nhưng còn hạn chế do vốn góp của thành viên còn thấp, bình quân vốn góp của thành viên là 49,7 triệu đồng/thành viên. Các hợp tác xã chưa tiếp cận được vốn vay từ tổ chức tín dụng bởi không có tài sản thế chấp hoặc có tài sản thế chấp nhưng tổ chức tín dụng định giá đất (nhất là đất nông nghiệp) và các tài sản trên đất còn thấp, chưa phù hợp với giá thị trường. Bên cạnh đó, đất sản xuất nông nghiệp tiếp tục giảm do quá trình đô thị hóa ảnh hưởng không nhỏ đến tổ chức, mở rộng sản xuất cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của các hợp tác xã. Cơ sở vật chất, trụ sở (văn phòng làm việc, giao dịch, khu vực nhà xưởng, sơ chế, chế biến,...) của các hợp tác xã còn lạc hậu. Một số hợp tác có nhu cầu xây dựng các công trình phụ trợ để phục vụ nuôi, trồng, sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp công nghệ cao nhưng do chính sách đất đai, đầu tư cơ sở vật chất và cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã còn chậm triển khai hoặc triển khai thiếu đồng bộ nên các hợp tác xã có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp khó thực hiện, hạn chế việc phát triển sản xuất của hợp tác xã.
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực của các hợp tác xã nông nghiệp còn thấp. Đa số cán bộ chủ chốt của hợp tác xã nông nghiệp có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ hạn chế, chủ yếu là nông dân có kinh nghiệm sản xuất giỏi nhưng kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh chưa có, ít được đào tạo. Tư duy phát triển sản xuất, kinh doanh chưa theo kịp với sự phát triển của cơ chế thị trường, chưa nhạy bén và năng động trong tổ chức điều hành sản xuất, kinh doanh, thiếu nhân lực có tâm huyết đối với hoạt động của hợp tác xã. Công tác quản lý, điều hành của hợp tác xã chưa khoa học, thiếu theo dõi, cập nhật tình hình hoạt động. Phần lớn các hợp tác xã chưa xây dựng được kế hoạch sản xuất, kinh doanh khả thi, nên hoạt động không hiệu quả và không thể tiếp cận được các nguồn tín dụng ưu đãi đối với hợp tác xã. Tư duy quản lý của bộ máy chưa thích ứng với cơ chế thị trường, nhiều hợp tác xã trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của hợp tác xã còn thấp, chưa thực sự gắn bó lâu dài với hợp tác xã. Độ tuổi trung bình của lao động quản lý cao, 51% nguồn nhân lực trên 45 tuổi, 16% nguồn nhân lực dưới 30 tuổi. Trình độ người lao động tại các hợp tác xã nông nghiệp dưới trung học phổ thông chiếm 70%, người lao động có trình độ trung cấp chiếm 12,7%, trình độ cao đẳng là 6,3%, đại học chiếm 6,9% và trên đại học là 4,2%, với chuyên ngành đào tạo là kỹ thuật chiếm 34%, chuyên ngành kinh tế chiếm 20%, còn lại các chuyên ngành khác chiếm 46%. Các hợp tác xã có quan tâm đến công tác đào tạo, tuy nhiên, hình thức đào tạo, thời gian đào tạo chưa đi vào chiều sâu, chủ yếu hiện nay là tự đào tạo với thời gian dưới 1 tháng.
Thứ ba, vai trò của hợp tác xã trong việc giải quyết đầu vào và đầu ra cho các hộ sản xuất nông nghiệp còn hạn chế. Phần lớn các hợp tác xã sản xuất, kinh doanh vẫn mang tính tự phát, sản xuất nhỏ, thiếu liên kết giữa các thành viên, thiếu quan tâm đến nhu cầu chung của thành viên. Hợp tác xã chưa lo được thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các thành viên; thậm chí có hợp tác xã thành lập ra không có dịch vụ gì để cung cấp cho thành viên hoặc chỉ cung cấp những dịch vụ không thiết yếu. Một trong những khâu yếu nhất của hợp tác xã nông nghiệp hiện nay là khâu liên kết từ cung ứng vật tư, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Điều này khiến chất lượng nông sản không đồng đều, giá cả vật tư đầu vào tăng trong khi giá bán bấp bênh, không ổn định. Số doanh nghiệp hợp tác, đầu tư vào hợp tác xã chưa nhiều để giúp giải quyết đầu ra sản phẩm. Bên cạnh sự thiếu liên kết, quy mô nhỏ, giữa các hợp tác xã có tình trạng cạnh tranh lẫn nhau, chưa có sự phối hợp chặt chẽ để cùng cung ứng những đơn hàng lớn theo yêu cầu của các doanh nghiệp nên việc sản xuất càng gặp khó khăn.
Thứ tư, công tác tuyên truyền, vận động phát triển hợp tác xã nông nghiệp tại Thành phố hiện nay chưa được chú trọng đúng mức. Nhận thức của cán bộ quản lý, thành viên hợp tác xã cũng như của hộ nông dân về hợp tác xã chưa đầy đủ. Khi tham gia xây dựng hợp tác xã, các thành viên chưa xác định rõ vị trí, trách nhiệm của mình, thiếu sự gắn kết lợi ích giữa thành viên và hợp tác xã, nhiều thành viên hợp tác xã không nắm bắt được tình hình hoạt động của hợp tác xã, chưa rõ hiệu quả kinh tế - xã hội mà hợp tác xã mang lại nên phát sinh tâm lý hoài nghi, không tin tưởng và thiếu gắn bó lâu dài. Các vấn đề liên quan đến tổ chức, cán bộ, số lượng thành viên, vốn, cơ sở vật chất, điều kiện hoạt động,... còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với mô hình hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã (sửa đổi) năm 2012.
Những khó khăn trên ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã. Khi đánh giá mức độ hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp theo Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT, ngày 14-4-2017, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn phân loại và đánh giá hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, Thành phố chỉ có 83/112 hợp tác xã đủ cơ sở để đánh giá mức độ hoạt động, trong đó có 60 hợp tác xã hoạt động tốt, khá (chiếm tỷ lệ 72%), 23 hợp tác xã hoạt động trung bình (chiếm tỷ lệ 28%), còn lại hợp tác xã hoạt động yếu.
Để tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp
Để tăng cường phát triển mô hình hợp tác xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả gắn với phát huy vai trò trung tâm của hợp tác xã là đầu mối tổ chức sản xuất, kết nối tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp giữa hộ nông dân và doanh nghiệp, Thành phố xác định, phát triển kinh tế tập thể trong lĩnh vực nông nghiệp phải dựa trên nội lực của hợp tác xã là chính, Nhà nước hỗ trợ về mặt thể chế, cơ chế, chính sách và một phần ngân sách nhằm tạo điều kiện cho kinh tế tập thể phát triển. Phấn đấu đến hết năm 2025, tất cả các hợp tác xã hoạt động tại Thành phố phải thực hiện đúng quy định của Luật Hợp tác xã (sửa đổi) năm 2012 và có ít nhất 50% hợp tác xã hoạt động theo mô hình liên kết sản xuất gắn với chuỗi giá trị và tiêu thụ nông sản chủ lực bảo đảm bền vững. Để thực hiện được mục tiêu trên, ngành nông nghiệp của Thành phố cần triển khai một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp. Thành phố cần bố trí cán bộ chuyên trách công tác quản lý nhà nước về hợp tác xã ở phòng kinh tế cấp quận, huyện; thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực quản lý cho cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã; tổ chức điều tra, cập nhật cơ sở dữ liệu về hợp tác xã nông nghiệp để nắm được những khó khăn, vướng mắc đang tồn tại và các kiến nghị của hợp tác xã, từ đó đề xuất các cơ chế, chính sách thực sự phù hợp cho sự phát triển kinh tế hợp tác của Thành phố; ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý cơ sở dữ liệu hợp tác xã; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể ở địa phương.
Hai là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về hợp tác xã, chủ yếu nội dung của Luật Hợp tác xã (sửa đổi) năm 2012. Từ đó tạo nền tảng hướng đến hình thành hợp tác xã tiên tiến, hiện đại theo định hướng của Thành phố đề ra; tổ chức các chuyến khảo sát, học tập cho cán bộ, thành viên hợp tác xã tham quan thực tế ở những mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới, làm ăn có hiệu quả (chú trọng học tập cách thức vận hành, quản lý hợp tác xã của ban lãnh đạo hợp tác xã).
Ba là, thực hiện tốt công tác điều tra, cập nhật cơ sở dữ liệu về hợp tác xã nông nghiệp, đặc biệt chú trọng đánh giá thực trạng hoạt động, hiệu quả mà hợp tác xã mang lại cho các thành viên. Từ đó, tham mưu đề xuất các cơ chế, chính sách thực sự phù hợp cho sự phát triển kinh tế hợp tác của Thành phố. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để chứng minh hiệu quả mà hợp tác xã mang lại cho các thành viên, tạo sự tin tưởng, thu hút hộ nông dân tham gia.
Bốn là, thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ để thúc đẩy hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới phát triển. Chú trọng các chính sách hỗ trợ ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, chính sách hỗ trợ vốn, tín dụng, hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, xúc tiến thương mại và tiêu thụ sản phẩm cho hợp tác xã nông nghiệp.
Năm là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng hiệu quả cán bộ quản lý cũng như người lao động tại các hợp tác xã nông nghiệp. Thành phồ cần tăng cường công tác bồi dưỡng năng lực quản lý, điều hành hợp tác xã cho các chức danh chủ chốt của hợp tác xã; tập huấn kỹ thuật, chú trọng kỹ thuật về nông nghiệp công nghệ cao cho thành viên và người lao động của hợp tác xã nông nghiệp; tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, cán bộ trẻ về làm việc tại hợp tác xã nông nghiệp.
Sáu là, các hợp tác xã nông nghiệp cần tự nâng cao năng lực để tiếp tục phát triển, thay đổi cách nghĩ, cách làm, thực sự hoạt động theo nguyên tắc tự lực, tự chịu trách nhiệm, quản lý dân chủ, hiệu quả hoạt động cao, có sự tương trợ lẫn nhau. Nâng cao năng lực tài chính, tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại để thúc đẩy sự liên kết xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh; đồng thời, mạnh dạn, chủ động kiến nghị, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền trong việc hoàn thiện các chính sách liên quan đến hợp tác xã./.
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vững vai trò đầu tàu phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam  (14/12/2020)
Tỉnh Gia Lai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá để phát triển bền vững, phấn đấu trở thành trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên  (13/12/2020)
Hội nghị lần thứ 2 của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh khóa XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025  (05/12/2020)
Khởi nghĩa Nam Kỳ - ý chí quật cường và khát vọng giành độc lập của dân tộc Việt Nam  (23/11/2020)
Nam Bộ kháng chiến - ý chí bảo vệ độc lập, tự do và bài học lịch sử  (21/11/2020)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển