TCCS - Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang là xu thế phát triển lớn của thời đại, ảnh hưởng tới mọi quốc gia, doanh nghiệp và cá nhân. Xu thế này đang tạo ra thời cơ phát triển nhưng cũng nhiều thách thức đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Vài nét về thực trạng tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay

Ngày 07-3-1994, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 91/TTg, thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh chủ yếu, đánh dấu sự ra đời của các tập đoàn kinh tế của Việt Nam. Trải qua quá trình xây dựng văn bản pháp luật cũng như chuẩn bị các điều kiện về tiềm lực, khả năng và con người, vấn đề tập đoàn kinh tế nhà nước đã dần được nhận thức rõ ràng hơn. Để tạo lập khung pháp lý cho hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước, Chính phủ ban hành Nghị định số 101/2009/NĐ-CP, ngày 05-11-2009, về “Thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước” và Nghị định số 69/2014/NĐ-CP, ngày 15-7-2014, về “Tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà nước”. Mục tiêu cần đạt được của các tập đoàn kinh tế là tập trung đầu tư và huy động các nguồn lực hình thành nhóm công ty có quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt, cần phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vai trò bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân; ứng dụng công nghệ cao; tạo động lực phát triển cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế; thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành phần kinh tế khác. Trải qua quá trình hoạt động thí điểm, cơ cấu lại và thực hiện cổ phần hóa, hiện nay Việt Nam còn 7 tập đoàn kinh tế hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, bảo đảm cân đối vĩ mô cho nền kinh tế, công ích, an ninh - quốc phòng (Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn công nghiệp cao-su Việt Nam (VRG), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT). Các tập đoàn kinh tế này có vốn điều lệ gần 600 nghìn tỷ đồng, có giá trị tài sản gần 1,3 triệu tỷ đồng. Thực tiễn hoạt động của các tập đoàn kinh tế cho thấy doanh nghiệp đã cơ bản thực hiện được vai trò là công cụ quan trọng trong điều tiết thị trường, ổn định giá cả, nhất là trong điều kiện nền kinh tế vĩ mô còn chưa ổn định, có nhiều biến động về cung - cầu hàng hóa, về giá cả; đa số các tập đoàn kinh doanh có lãi và nộp ngân sách nhà nước, các chỉ tiêu nhìn chung đều tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Bên cạnh đó, vẫn còn xảy ra tình trạng các tập đoàn kinh tế hoạt động kém hiệu quả, để xảy ra tiêu cực, tham nhũng lãng phí, làm thất thoát tài sản nhà nước với quy mô lớn, như thực trạng đã xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV)...; hoạt động đầu tư bên ngoài lĩnh vực chính còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, năng lực quản lý và khả năng tài chính còn hạn chế, thiếu kiểm soát chặt chẽ, làm phân tán nguồn lực, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp; một số tập đoàn hoạt động kém hiệu quả, lợi nhuận trước thuế và nộp ngân sách nhà nước có tốc độ tăng chậm, chưa thực sự phát huy được vai trò nòng cốt trong nền kinh tế cũng như chưa làm tốt vai trò dẫn dắt, thúc đẩy các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước...

Để giải quyết những hạn chế, bất cập trong phát triển các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đặt mục tiêu đến năm 2020 là “cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2017 - 2020 trên cơ sở các tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc các ngành, lĩnh vực”. Để tăng cường tính hiệu quả cho hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, Chính phủ ban hành Nghị định 131/2018/NĐ-CP, ngày 29-9-2018, thành lập Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC), trước mắt Ủy ban này quản lý hơn 1 triệu tỷ đồng vốn điều lệ và hơn 2,3 triệu tỷ đồng tài sản của 7 tập đoàn kinh tế và 12 tổng công ty nhà nước thành viên.

Như vậy, tập đoàn kinh tế nhà nước được hình thành và phát triển cùng với đường lối cải cách, mở cửa và hội nhập quốc tế của Đảng ta, cơ bản thực hiện được vai trò là lực lượng quan trọng của nền kinh tế, góp phần điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của các tập đoàn kinh tế chưa hiệu quả và tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ, chưa thực sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.

Cơ hội và thách thức đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước trong bối cảnh hiện nay

Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện hội nhập quốc tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam nói chung, các tập đoàn kinh tế nhà nước nói riêng đang chịu tác động, ảnh hưởng đa chiều của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Để tiếp tục phát triển, đòi hỏi các tập đoàn kinh tế phải biết nắm bắt, tận dụng cơ hội, khắc phục các thách thức trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, đặc biệt là những thuận lợi đem lại từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0).

Cách mạng công nghiệp 4.0 với trọng tâm là các phát minh và sự đột phá trong công nghệ vật lý (nhất là công nghệ nano), công nghệ số hóa và công nghệ sinh học tạo ra nền sản xuất - kinh doanh thông minh đặc trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số và sinh học, tạo ra sự liên kết, hoạt động hữu hiệu của các hệ thống liên kết thế giới thực và ảo. Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến tất cả các khâu của nền kinh tế, bao gồm sản xuất và tiêu dùng, thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức - thông minh, kinh tế số, kinh tế chia sẻ.

Đối với nhà sản xuất, Cách mạng công nghiệp 4.0 với các công nghệ tiên tiến giúp tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới, tăng hiệu quả sản xuất, thúc đẩy sáng tạo và phát triển nền công nghiệp trong dài hạn; giảm chi phí vận chuyển, liên lạc và thương mại, tăng hiệu quả dây chuyền cung cấp. Khâu sản xuất dần được ứng dụng máy móc một cách triệt để, giảm vai trò của người lao động trực tiếp. Những nước có nguồn nhân lực giá rẻ dồi dào là những nước kém phát triển sẽ càng khó cạnh tranh được với các nước phát triển trong khâu sản xuất.

Về việc làm, Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi hoàn toàn cách sống, làm việc và sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực lao động khi máy móc dần thay thế con người. Nhiều loại hình công việc, đặc biệt là những công việc có tính lặp đi lặp lại và đòi hỏi lao động chân tay chính xác được tự động hóa. Các nghề như luật sư, phân tích tài chính, bác sĩ, kế toán, bảo hiểm hay thủ thư sẽ được tự động hóa một phần hoặc toàn bộ. Sẽ tăng nhu cầu việc làm đối với các loại công việc tập trung trí tuệ, đòi hỏi tính sáng tạo với mức lương cao và loại công việc lao động phổ thông có thu nhập thấp, nhưng sẽ giảm đáng kể nhu cầu với các loại công việc đều đặn, lặp đi lặp lại với thu nhập trung bình.

Đối với doanh nghiệp, mô hình vận hành được chuyển sang các mô hình số mới, đòi hỏi khâu quy hoạch chiến lược phải đáp ứng nhu cầu vận hành nhanh hơn và linh hoạt, nhạy bén hơn, được ra đời dựa trên nền tảng hiệu ứng mạng lưới của xu thế số hóa. Các chiến lược nền tảng, kết hợp với nhu cầu coi khách hàng là trung tâm và cải tiến sản phẩm bằng dữ liệu, đang chuyển đổi các ngành công nghiệp từ chỗ tập trung bán sản phẩm sang cung cấp dịch vụ. Ngày càng nhiều người tiêu dùng không còn mua và sở hữu sản phẩm hữu hình mà trả tiền cho dịch vụ họ sử dụng thông qua một nền tảng kỹ thuật số.

Với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, đây là một “cơ hội vàng” để đi tắt đón đầu về khoa học và công nghệ, ứng dụng những tiến bộ, thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại, trước hết là công nghệ thông tin, công nghệ số, công nghệ điều khiển và tự động hóa để nâng cao năng suất, hiệu quả trong tất cả các khâu sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là quản lý của nền kinh tế. Lĩnh vực công nghệ thông tin mặc dù còn mới mẻ nhưng được đánh giá là một trong những ngành có tiềm năng của Việt Nam, do đó với thành tựu của công nghệ số, nhất là công nghệ in-tơ-nét vạn vật (IoT) được phát triển khá nhanh, sẽ tạo điều kiện mở ra các cơ hội khởi nghiệp và ra đời các sản phẩm mới, dịch vụ mới và có thể áp dụng sâu rộng vào các ngành kinh tế - xã hội. Mặt khác, Chính phủ và chính quyền các địa phương đang thực hiện xây dựng mô hình nhà nước kiến tạo, liêm chính, hành động, phục vụ người dân, doanh nghiệp và đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Theo Báo cáo đánh giá mức độ sẵn sàng cho cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Việt Nam hiện xếp thứ 48/100 về cấu trúc của nền sản xuất và thứ 53/100 về các yếu tố dẫn dắt sản xuất, mức độ sẵn sàng của Việt Nam mặc dù vẫn ở nhóm sơ khởi nhưng khá gần với nhóm tiềm năng cao, được đánh giá là một trong những quốc gia có điều kiện thuận lợi để phát triển, tận dụng triệt để những thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Trong xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam có cơ hội và tiềm năng rất lớn để xây dựng một nền kinh tế mới ngày càng hiện đại, hiệu quả, hội nhập. Việc khai thác đúng đắn và kịp thời những cơ hội này mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu; tạo ra sự thay đổi lớn về mô hình kinh doanh bền vững hơn và cơ hội cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; mang lại tiềm năng cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hóa bằng cách đi tắt, đón đầu, phát triển nhảy vọt lên công nghệ cao hơn. Tăng cường hợp tác chính là yếu tố then chốt và cũng là cơ hội để Việt Nam chủ động, đón đầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, góp phần thúc đẩy, hỗ trợ các doanh nghiệp triển khai các chương trình đổi mới sáng tạo một cách mạnh mẽ, chuyển nhanh các kiến thức, kết quả nghiên cứu thành sản phẩm. Đồng thời, cần thay đổi văn hóa khởi nghiệp để các doanh nghiệp tận dụng tối đa cơ hội đón đầu công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong đó, với các lợi thế về nguồn lực, chính sách và tầm ảnh hưởng, các tập đoàn kinh tế nhà nước cần phải chủ động đi đầu, đi trước trong việc nắm bắt thời cơ để xây dựng chiến lược phát triển theo hướng thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ chủ chốt vào sản xuất kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, thực hiện vai trò đầu tàu dẫn dắt các doanh nghiệp Việt Nam khác tiếp cận sâu hơn nữa vào cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta và xu thế chung của thế giới.

Bên cạnh thời cơ, thuận lợi nêu trên, xu hướng toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay cũng tạo ra nhiều thách thức cho Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam. Nếu không có cách tiếp cận đúng và bắt kịp nhịp độ phát triển của thế giới và khu vực, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về công nghệ, tình trạng dư thừa lao động kỹ năng thấp và sự bất bình đẳng trong xã hội. Bên cạnh đó, sự liên kết, gắn kết trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 dẫn tới vấn đề biên giới mềm, quyền lực mềm, vấn đề an ninh mạng và an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao xuyên quốc gia... Đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước, các thách thức chủ yếu hiện nay là:

Thứ nhất, thách thức về nguồn nhân lực. Hiện nay, nhiều tập đoàn kinh tế vẫn hoạt động trong các lĩnh vực dựa vào lao động giá rẻ và sản xuất gia công. Trong khi đó, trình độ của người lao động nói riêng và nguồn nhân lực nói chung của Việt Nam được đánh giá là còn lạc hậu, chưa đáp ứng được đòi hỏi và yêu cầu của việc áp dụng thành tựu của cuộc cách mạng 4.0, hoàn toàn có thể dẫn đến nguy cơ mất việc vì các rô-bốt tự động hóa. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì 86% số người lao động trong ngành dệt may và 75% số người lao động trong ngành điện, điện tử có thể phải đối mặt với nguy cơ mất việc làm cao do tự động hóa. Còn theo Ngân hàng Thế giới (WB) thì chất lượng nhân lực của Việt Nam hiện đạt 3,79/10 điểm, phần lớn đều thiếu kỹ năng mềm như ngoại ngữ, công nghệ thông tin, kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp, tác phong công nghiệp... Bên cạnh đó, hiện nay hoạt động sản xuất thế giới đang có xu hướng chuyển dịch dần từ nước có nhiều lao động phổ thông, lao động giá rẻ sang nơi có nhiều lao động kỹ năng, chuyên môn cao và gần thị trường tiêu thụ.

Thứ hai, thách thức về chiến lược phát triển kinh tế. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức - thông minh, các tập đoàn kinh tế buộc phải thay đổi chiến lược phát triển từ khai thác tài nguyên sang dựa vào công nghệ, đổi mới và sáng tạo cho phù hợp với xu thế chung của thế giới. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang cấu trúc lại bản đồ kinh tế trên thế giới theo hướng suy giảm quyền lực của các quốc gia phát triển dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và các yếu tố tăng trưởng truyền thống, gia tăng sức mạnh của các quốc gia phát triển dựa chủ yếu vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là các động lực phát triển không giới hạn. Trong khi đó, phần lớn tập đoàn kinh tế có tiềm lực của Việt Nam hiện nay hầu như đều dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ, than đá, khoáng sản, rừng..., tập trung nhiều sức lao động chất lượng trung bình hoặc thấp là yếu tố tăng trưởng có giới hạn. Nếu không kịp thời thay đổi để thích ứng, các tập đoàn kinh tế sẽ lâm vào tình trạng tụt hậu, thậm chí có thể bị các doanh nghiệp trẻ khởi nghiệp trong cùng lĩnh vực kinh doanh vượt qua như tình trạng của các tập đoàn công nghệ IBM, Microsoft, Intel phải chật vật ứng phó và tìm mọi cách cơ cấu lại trước sự tăng trưởng nhanh của Google, Facebook...

Thứ ba, thách thức về mô hình vận hành, quản trị. Các tập đoàn kinh tế cần nhanh chóng thay đổi mô hình vận hành, quản trị để tăng tính chủ động, tích cực để có thể tiếp tục giữ vai trò “đầu tàu kinh tế” trong nền kinh tế quốc dân cũng như cạnh tranh sòng phẳng, bình đẳng với các công ty, tập đoàn nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam và trong khu vực. Cần định vị các lĩnh vực và các ngành kinh tế - xã hội đang ở giai đoạn nào của phát triển công nghệ, tiếp tục thực hiện cấu trúc lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng phù hợp để có thể phát triển bền vững, vừa đón đầu và nắm bắt được các thành tựu, phát huy được các tác động tích cực của Cách mạng công nghiệp 4.0 và điều chỉnh để hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của sự thay đổi này.

Thứ tư, thách thức về môi trường kinh doanh. Việt Nam đang trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, môi trường kinh doanh chưa thực sự ổn định và hoàn thiện (theo Báo cáo về chỉ số cạnh tranh toàn cầu thì Việt Nam đứng thứ 60/130 về năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2016 - 2017, đạt 4,36/10 điểm, đứng thứ 55/137 năm 2017 - 2018). Điều này hạn chế khả năng ứng dụng, tiếp thu thành quả của Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế nhà nước với đại diện tiêu biểu là các tập đoàn kinh tế.

Tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam được thành lập bằng các quyết định hành chính xuất phát từ yêu cầu mở cửa hội nhập trên cơ sở sắp xếp các doanh nghiệp nhỏ, manh mún thành những doanh nghiệp lớn để đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, tăng cường vị trí của doanh nghiệp nhà nước trong việc bảo đảm vai trò chủ đạo, dẫn dắt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và các tập đoàn hoạt động hiệu quả sẽ làm nòng cốt trong nền kinh tế quốc dân. Thực tế hoạt động của các tập đoàn kinh tế trong thời gian qua cho thấy đã có đóng góp tích cực vào ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm cân đối lớn của nền kinh tế, cơ bản thực hiện vai trò đầu tàu trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất hiện nay là các hoạt động chưa hiệu quả so với nguồn lực sở hữu, chậm đổi mới và thích ứng với môi trường kinh doanh thay đổi nhanh chóng. Những thách thức trên đòi hỏi Chính phủ và các tập đoàn kinh tế của Việt Nam cần phải đổi mới mạnh mẽ, xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ cho nền kinh tế số, các mô hình sản xuất và dịch vụ thông minh; thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp về quản trị công quốc gia và phát triển các mô hình sản xuất, dịch vụ thông minh; phát triển kết cấu hạ tầng kết nối số; đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao; cải cách hành chính; nâng cao năng lực cạnh tranh... Tiếp tục kiên trì thực hiện quan điểm cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu, nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân./.