Giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản trong thực hiện nông thôn mới
TCCSĐT - Ngày 05-10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về báo cáo kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (giai đoạn 2010 - 2015) gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp”; giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII; báo cáo kết quả tiếp công dân, tiếp nhận xử lý đơn thư của công dân và kết quả giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo của Quốc hội năm 2016.
Thực hiện Chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2016, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập Đoàn giám sát “Việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (giai đoạn 2010 - 2015) gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp.”
2.045 xã đạt tiêu chí nông thôn mới
Trưởng Đoàn giám sát, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết qua giám sát cho thấy chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai rộng rãi trên toàn quốc đã đạt những kết quả quan trọng. Diện mạo nông thôn có nhiều thay đổi nhất là hệ thống giao thông nông thôn, kết cấu hạ tầng xã hội; mô hình sản xuất tập trung bước đầu được hình thành, thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện, nhận thức của người dân được thay đổi, phát huy vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới.
Từ chỗ còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào đầu tư của Nhà nước, người dân đã chủ động tham gia tích cực vào xây dựng nông thôn mới (bằng hình thức hiến đất, đóng góp ngày công, kinh phí...). Cơ chế trao quyền tự quyết cho cộng đồng thôn, xã đã phát huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương xây dựng nông thôn mới trở thành phong trào sôi động khắp cả nước; đã có sự tham gia của toàn xã hội kể cả lực lượng quân đội với phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Qua giám sát cho thấy những xã được địa phương quan tâm ưu tiên tập trung nguồn lực để đầu tư đều sớm đạt tiêu chí nông thôn mới, thu nhập của người dân đã được nâng lên đáng kể.
Đến ngày 31-12-2015, cả nước có 1.526 xã (chiếm 17,1%) đạt chuẩn nông thôn mới. Đến tháng 3-2016, cả nước đã có có 1.761 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 19,7%; 1.223 xã, chiếm 13,7% đạt từ 15-18 tiêu chí; 3.355 xã, chiếm 37,5% đạt từ 10-14 tiêu chí; 2.270 xã, chiếm 25,4% đạt từ 5-9 tiêu chí và 326 xã, chiếm 3,65% đạt dưới 5 tiêu chí.
Số xã khó khăn nhưng có nỗ lực vươn lên (xuất phát điểm dưới ba tiêu chí, nay đã đạt được 10 tiêu chí trở lên) là 182 xã. Bình quân tiêu chí/xã: 12,9 tiêu chí, tăng 8,2 tiêu chí so với năm 2010. Các tiêu chí Chương trình xây dựng nông thôn mới được cải thiện rõ rệt, có mức tăng trưởng tích cực so với năm 2011.
Đến tháng 9-2016, đã có 2.045 xã đạt tiêu chí nông thôn mới (đạt 23%), đã có 24 đơn vị cấp huyện được Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Việc một số huyện đạt tiêu chí nông thôn mới sớm hơn so với dự kiến là bước phát triển quan trọng của Chương trình.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Chương trình còn có những hạn chế, yếu kém như việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện còn chậm, chưa đầy đủ, chưa đồng bộ; Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới chưa phù hợp với các vùng, miền; công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, chất lượng chưa cao; tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở một số địa phương chưa gắn với việc ứng phó biến đổi khí hậu, khan hiếm nước, nước biển dâng, xâm nhập mặn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn chậm, cơ cấu kinh tế nông thôn chưa có sự thay đổi lớn; thu nhập của nông dân chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp; công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn phát triển chưa mạnh; phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới và thu hút doanh nghiệp còn hạn chế; sự gắn kết giữa công nghiệp và dịch vụ với sản xuất nông nghiệp thiếu chặt chẽ, chưa bền vững; cơ chế, chính sách khuyến khích tích tụ ruộng đất tạo mô hình sản xuất tập trung, cánh đồng lớn chưa đủ mạnh; chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Vốn đầu tư chưa bảo đảm yêu cầu; nợ đọng xây dựng cơ bản còn cao. Những hạn chế này đã tác động đến hiệu lực, hiệu quả, tính bền vững của việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Đoàn giám sát đề nghị Chính phủ khẩn trương sửa đổi, ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng, miền, địa bàn theo hướng khung tiêu chí cứng và một số tiêu chí linh hoạt, trên cơ sở đó, có chính sách, định hướng đầu tư phù hợp với thực tế. Xây dựng bộ tiêu chí nâng cao làm cơ sở để các địa phương áp dụng cho các xã đã hoàn thành tiêu chí nông thôn mới. Ban hành kịp thời, đồng bộ các văn bản hướng dẫn thực hiện Chương trình. Hướng dẫn cụ thể, đầy đủ các biểu mẫu báo cáo, chỉ tiêu thống kê để có sự thống nhất trong số liệu báo cáo từ Trung ương đến địa phương.
Nợ đọng xây dựng cơ bản lớn
Một trong những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được Đoàn giám sát chỉ ra là "Các địa phương vẫn nợ đọng xây dựng cơ bản lớn, có 53/63 tỉnh, thành phố có nợ đọng với số tiền khoảng 15.277 tỷ đồng, cá biệt đã có địa phương mất khả năng thanh toán gây dư luận không tốt trong nhân dân. Đáng lưu ý số nợ đọng xây dựng cơ bản lớn tập trung chủ yếu ở khu vực phía bắc (đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ) là khu vực có phong trào xây dựng nông thôn mới dẫn đầu cả nước, hai khu vực này có số nợ đọng lớn nhất, chiếm tới 75,3% số nợ đọng của cả nước.
Tổng số nợ đọng tại các xã đã được công nhận nông thôn mới chiếm đến 46,9% số nợ đọng của cả nước. Mặc dù, số nợ đọng này chỉ chiếm 1,8% so với tổng nguồn lực huy động cho Chương trình và chiếm 5,7% tổng nguồn ngân sách hỗ trợ thực hiện, tuy nhiên, tình trạng nợ đọng để lại hậu quả xấu và ảnh hưởng đến chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng và Nhà nước.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân băn khoăn đặt câu hỏi "nợ để được đạt nông thôn mới thì xử lý như thế nào", qua giám sát chưa thấy Đoàn giám sát đưa ra kiến nghị, giải pháp để giải quyết vấn đề này.
Giải quyết thực tế này, Đoàn giám sát đưa ra giải pháp rà soát nợ đọng xây dựng cơ bản, có hướng giải quyết dứt điểm nợ đọng này trong năm 2017 và không để tái diễn tình trạng huy động vốn đầu tư vượt quá khả năng thanh toán dẫn đến nợ đọng xây dựng cơ bản. Đối với các địa phương còn nợ đọng xây dựng cơ bản thì không cho phép triển khai công trình xây dựng mới cho đến khi xử lý xong nợ đọng; chỉ phê duyệt dự án khi đã xác định được nguồn vốn.
Thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về đầu tư công, đấu thầu, không cho phép doanh nghiệp tự bỏ vốn chuẩn bị đầu tư, thi công dự án nông thôn mới khi chưa được bố trí vốn. Không xem xét công nhận đạt chuẩn nông thôn mới đối với địa phương có nợ đọng xây dựng cơ bản.
Đối với các địa phương đã được công nhận đạt chuẩn nếu không xử lý xong nợ đọng xây dựng cơ bản trong vòng một năm kể từ khi công nhận thì cấp có thẩm quyền xem xét lại việc công nhận. Kiểm điểm, xử lý trách nhiệm cá nhân người đứng đầu nếu để xảy ra tình trạng huy động quá sức dân, nợ đọng xây dựng cơ bản.
Tuy nhiên, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu tỏ ý băn khoăn trước đề xuất "Rà soát nợ đọng xây dựng cơ bản, có hướng giải quyết dứt điểm nợ đọng này trong năm 2017" của Đoàn giám sát và cho rằng đề xuất này là khó thực hiện bởi theo báo cáo, có tổng số 3.637 xã có nợ đọng (chiếm 40,7% số xã xây dựng nông thôn mới cả nước) với mức nợ bình quân khoảng 4,2 tỷ đồng/xã). Phó Chủ tịch Quốc hội lo lắng bởi lấy ngân sách nào, số tiền ở đâu để đưa ra mục tiêu năm 2017 giải quyết dứt điểm nợ đọng này. Phó Chủ tịch Quốc hội nhận định đây là việc rất khó, và giải pháp được Đoàn giám sát đưa ra là không khả thi. Tương tự vậy, việc đề xuất "không xem xét công nhận đạt chuẩn nông thôn mới đối với địa phương có nợ đọng xây dựng cơ bản" cũng là không thực tế, Phó Chủ tịch Quốc hội nêu rõ.
** Chiều cùng ngày, Phiên họp thứ Tư của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV diễn ra với nội dung về giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri; kết quả tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII.
Một số bộ ngành chưa chú trọng đến việc xử lý, giải quyết các kiến nghị cử tri
Theo báo cáo, từ Kỳ họp thứ 10 đến Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII, 63 Đoàn đại biểu Quốc hội đã tổ chức 823 cuộc tiếp xúc cử tri, tổng hợp 2.613 kiến nghị gửi đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội về các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong công tác lập pháp, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã nghiêm túc nghiên cứu, xem xét, tiếp thu những kiến nghị của cử tri để hoàn thiện các dự án luật nhằm khắc phục tình trạng luật "khung", luật "ống". Đồng thời tích cực đôn đốc các cơ quan có thẩm quyền khẩn trương ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật nhằm bảo đảm luật đi vào cuộc sống.
Trong hoạt động giám sát, Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội đã lựa chọn và tiến hành giám sát chuyên đề về một số lĩnh vực mà cử tri có nhiều kiến nghị. Nhiều vấn đề bức xúc trong đời sống kinh tế -xã hội đã được Quốc hội xem xét, phân tích thẳng thắn, chỉ ra những tồn tại, hạn chế, đồng thời yêu cầu Chính phủ, các ngành, các cấp tiếp tục có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, giải quyết tốt hơn những yêu cầu, kiến nghị của cử tri.
Tuy nhiên hiện nay, vẫn còn 129 kiến nghị cử tri còn tồn đọng, đang được xem xét, nghiên cứu để giải quyết, tập trung vào các nhóm vấn đề chính như: nông nghiệp, nông thôn; an sinh xã hội; y tế; giáo dục; văn hóa... thuộc thẩm quyền tiếp thu, nghiên cứu, giải quyết của Chính phủ và các bộ, ngành.
Cần coi việc giải quyết kiến nghị của cử tri làm tiêu chí hoàn thành nhiệm vụ
Theo các đại biểu, kết luận giám sát đã thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế yêu cầu Chính phủ, các ngành, các cấp tiếp tục có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, giải quyết tốt hơn những yêu cầu kiến nghị của cử tri. Trong đó có tình trạng ban hành văn bản trả lời kiến nghị cử tri là trách nhiệm của Bộ trưởng, trưởng ngành, tuy nhiên, vẫn còn hiện tượng ở một số bộ, ngành lại giao cho cấp phó trả lời là chưa thể hiện hết trách nhiệm của Bộ trưởng, trưởng ngành đối với cử tri và nhân dân cả nước.
Bên cạnh đó, các đại biểu cũng đề nghị Chính phủ sớm hoàn thiện và ban hành quy chế phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc giải quyết kiến nghị của cử tri có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực để từng bước nâng cao hơn nữa chất lượng giải quyết.
Chính phủ cần nghiên cứu để có hình thức xử lý đối với cá nhân, tổ chức thuộc các ngành, lĩnh vực trong trường hợp không giải quyết dứt điểm các kiến nghị của cử tri, để cử tri kiến nghị qua nhiều kỳ họp./.
Thường trực Ban Bí thư: Duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông  (05/10/2016)
Công tác thông tin đối ngoại phải dự báo và tham mưu tốt hơn nữa để định hướng tốt dư luận  (05/10/2016)
Thủ tướng và đoàn đại biểu Hải Phòng tiếp xúc cử tri huyện Vĩnh Bảo  (05/10/2016)
Báo cáo Cập nhật kinh tế Đông Á - Thái Bình Dương  (05/10/2016)
Bối cảnh quốc tế và việc triển khai Nghị quyết Đại hội XII của Đảng  (05/10/2016)
- Một số vấn đề về chuyển đổi nội dung số trong các tạp chí của Việt Nam hiện nay
- Tỉnh Nam Định xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp: Nền tảng góp phần phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Pháp
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay