Báo cáo Cập nhật kinh tế Đông Á - Thái Bình Dương
TCCSĐT - Ngày 05-10-2016, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo Cập nhật kinh tế Đông Á - Thái Bình Dương, nêu rõ tăng trưởng ở các nước đang phát triển trong khu vực được kỳ vọng sẽ tiếp tục được duy trì trong 3 năm tới với mức 5,8% năm 2016 và 5,7% năm 2017-2018. Tuy nhiên, các nước vẫn đối mặt với rủi ro tăng trưởng đáng kể và cần thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu yếu kém về tài chính và tài khoá.
Viễn cảnh tăng trưởng
Báo cáo phân tích toàn diện viễn cảnh các nước trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương trong bối cảnh thách thức toàn cầu, trong đó gồm có các yếu tố, như tăng trưởng chậm tại các nền kinh tế phát triển, viễn cảnh không mấy sáng sủa tại hầu hết các nước đang phát triển và thương mại toàn cầu trì trệ. Báo cáo dự đoán cầu nội địa trong toàn khu vực vẫn mạnh. Giá nguyên vật liệu vẫn duy trì ở mức thấp sẽ có lợi cho các nước nhập khẩu và giúp lạm phát kiềm chế ở mức thấp tại hầu hết các nước trong khu vực.
Tại Trung Quốc, tăng trưởng sẽ giảm nhẹ do nền kinh tế đang trong quá trình tái điều chỉnh theo hướng tăng tiêu dùng và dịch vụ, dịch chuyển sang các hoạt động tạo nhiều giá trị gia tăng hơn, đồng thời cắt giảm năng lực công nghiệp dư thừa. Ngoài ra, cũng cần chú ý kiểm soát chặt chẽ thị trường lao động hơn để tăng thu nhập và chi dùng cá nhân. Theo Báo cáo, Trung Quốc sẽ tiếp tục quá trình chuyển đổi dần sang mô hình tăng trưởng chậm hơn nhưng bền vững, từ 6,7% năm nay xuống còn 6,5% năm 2017 và 6,3% năm 2018. Các nước khác trong khu vực dự kiến sẽ duy trì tăng trưởng ổn định ở mức 4,8% năm 2016, 5,0% năm 2017 và 5,1% năm 2018. Nhìn chung, các nước đang phát triển trong khu vực sẽ đạt mức tăng trưởng 5,8% năm 2016 và 5,7% giai đoạn 2017-2018.
Tại các nền kinh tế khác, Phi-líp-pin có viễn cảnh sáng sủa nhất với mức tăng trưởng dự kiến sẽ tăng 6,4% trong năm 2016. Tại Việt Nam, tăng trưởng sẽ bị suy giảm trong năm nay do bị hạn hán nặng nhưng sẽ tăng trở lại mức 6,3% năm 2017. Tại In-đô-nê-xi-a, tốc độ tăng trưởng sẽ tăng dần từ 4,5% năm 2015 lên 5,5% năm 2018 nhờ tăng đầu tư công và thành công trong quá trình cải thiện môi trường đầu tư và tăng thu nhập. Nhưng Ma-lai-xi-a sẽ giảm mức tăng trưởng xuống còn 4,2% trong năm 2016 từ mức 5,0% năm 2015 do mức cầu về dầu lửa và hàng chế tạo giảm trên quy mô toàn cầu.
Tại các nền kinh tế nhỏ hơn, viễn cảnh xấu đi đáng kể trong số các nước xuất khẩu nguyên vật liệu. Tại Mông Cổ, dự báo mức tăng trưởng chỉ đạt 0,1% trong năm nay trong khi năm ngoái đạt 2,3% bởi hai nguyên nhân: sụt giảm xuất khẩu nguyên vật liệu khai khoáng và kiểm soát nợ. Mức tăng trưởng tại Pa-pua Niu Gi-nê sẽ giảm từ 6,8% năm 2015 xuống còn 2,4% năm 2016 do giá cả và sản lượng đồng và khí hóa lỏng đều giảm. Trái lại, tăng trưởng sẽ vẫn duy trì tốt tại Cam-pu-chia, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Mi-an-ma.
Bà Victoria Kwakwa, Phó Chủ tịch WB phụ trách khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, nhận định: “Viễn cảnh tăng trưởng các nước đang phát triển khu vực Đông Á - Thái Bình Dương vẫn tích cực mặc dù tăng trưởng toàn cầu suy giảm nhưng được bù lại bởi tiêu dùng và đầu tư trong nước tăng mạnh. Thách thức dài hạn là làm sao duy trì được tăng trưởng, làm cho nó trở nên thiết thực với nhiều người hơn, ví dụ thông qua thu hẹp khoảng cách về thu nhập và tiếp cận dịch vụ công, nhất là tại Trung Quốc; cải thiện kết cấu hạ tầng tại các nước khác trong khu vực; giảm bớt tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em triền miên; và tận dụng công nghệ để thúc đẩy hòa nhập tài chính”.
Các ưu tiên trước mắt bao gồm đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp và kiểm soát tăng trưởng tín dụng tại Trung Quốc; cắt giảm tích tụ rủi ro tài chính trong nước và quốc tế tại các nước khác thuộc nhóm các nền kinh tế lớn; duy trì khoảng đệm tài khoá và mở rộng nguồn thu tại tất cả các nước, nhất là tại các nước xuất khẩu nguyên vật liệu; và giải quyết các rủi ro đe dọa bền vững tài khoá tại Mông Cổ và Ti-mo-Lét-xte.
Trong trung hạn, báo cáo nêu bốn lĩnh vực chính sách cần tập trung thúc đẩy tăng trưởng hòa nhập.
Thứ nhất, Trung Quốc cần phát huy thành công trước đây về giảm nghèo nhờ tăng cường cung cấp dịch vụ công cho vùng nông thôn và cho nhóm dân di cư ngày càng tăng vào các thành phố.
Thứ hai, các nước khác trong khu vực cần điều chỉnh chi công, tăng cường hợp tác công tư và nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư công nhằm hạn chế sự yếu kém về kết cấu hạ tầng.
Thứ ba, giải quyết nạn suy dinh dưỡng còn khá phổ biến. Tại nhiều nước, ngay cả tại một số nước có thu nhập cao, tỷ lệ trẻ em thiếu dinh dưỡng vẫn còn khá cao. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng sức khỏe và năng lực nhận thức kém và tình trạng này rất khó khắc phục. Báo cáo khuyến nghị, các nước nên thực hiện phối hợp các biện pháp trên nhiều lĩnh vực, như thực hiện các chương trình phát triển trẻ em từ những năm đầu đời hay các biện pháp can thiệp nhằm bổ sung các chất vi dinh dưỡng.
Thứ tư, ứng dụng công nghệ vào dịch vụ tài chính qua đó nâng cao mức độ hòa nhập tài chính. Hiện nay, các nước trong khu vực đã đạt trình độ công nghệ tiên tiến, tỷ lệ sử dụng điện thoại di động cao, nhưng vẫn còn hạn chế trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ tài chính. Để các biện pháp đổi mới sáng tạo trong ngành tài chính đem lại lợi ích, các nước cần tăng cường khung pháp lý và quản lý nhà nước cũng như tăng cường bảo vệ người tiêu dùng.
Ông Sudhir Shetty, Chuyên gia Kinh tế trưởng, khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, WB nói: “Mặc dù viễn cảnh khả quan nhưng các nước trong khu vực vẫn phải đối mặt với các rủi ro đáng kể. Thắt chặt đột ngột thị trường tài chính toàn cầu, tăng trưởng thế giới tiếp tục suy giảm, hoặc tăng trưởng Trung Quốc giảm tốc nhanh hơn dự đoán sẽ đặt các nước trong khu vực trước thử thách. Những yếu tố bất định này càng làm cho các nhà hoạch định chính sách phải quan tâm hơn đến thu hẹp tình trạng mất cân đối tài chính và tài khoá đã tích tụ một số năm qua”.
Việt Nam: Ổn định kinh tế vĩ mô vẫn được duy trì và sức ép lạm phát không đáng kể
Trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại, Việt Nam vẫn chứng tỏ khả năng chống chịu của mình. Trong 3 quý đầu năm 2016, tăng trưởng kinh tế giảm nhẹ do nông nghiệp bị hạn hán nặng nề và tăng trưởng công nghiệp sụt giảm. Nhưng ổn định kinh tế vĩ mô vẫn được duy trì và sức ép lạm phát không đáng kể.
Tỷ lệ giảm nghèo của Việt Nam vẫn tiếp tục giảm xuống nhưng sản xuất nông nghiệp sụt giảm đã gây ra một số rủi ro trong ngắn hạn. Sinh kế của các hộ gia đình dựa vào nông nghiệp đặc biệt bị ảnh hưởng. Về trung hạn, tình hình này có nhiều dấu hiệu tích cực, nhưng để khắc phục được các yếu kém vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng, cần thực hiện tái cơ cấu, cải cách tài khoá và cải cách ngân hàng quyết liệt hơn nữa./.
Bối cảnh quốc tế và việc triển khai Nghị quyết Đại hội XII của Đảng  (05/10/2016)
Đoàn Kinh tế - quốc phòng 327 giúp dân xóa đói, giảm nghèo bền vững ở vùng biên giới Đông Bắc  (05/10/2016)
Ấn Độ hướng tới vai trò cân bằng quyền lực tại châu Á  (05/10/2016)
Binh chủng Tăng Thiết giáp phát động thi đua cao điểm "Đoàn kết, lập công, quyết thắng"  (05/10/2016)
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiếp Đại sứ Nhật Bản chào từ biệt  (05/10/2016)
Thủ tướng: Các bộ, ngành phải có kế hoạch hành động mạnh mẽ  (05/10/2016)
- Một số vấn đề về chuyển đổi nội dung số trong các tạp chí của Việt Nam hiện nay
- Tỉnh Nam Định xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp: Nền tảng góp phần phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Pháp
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay