Quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng trong thực hiện quyền phụ nữ ở Việt Nam
TCCSĐT - Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nêu rõ: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng”(1). Đây là đường lối lãnh đạo quan trọng của Đảng trong thực hiện quyền phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
Thực hiện bình đẳng giới
Quyền con người của phụ nữ là những quyền vốn có, tự nhiên của con người và chỉ có con người mới có, đó là: những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, đến tự do cơ bản của con người. Quyền của phụ nữ là những quyền được pháp luật công nhận, điều chỉnh, là các quyền lợi bình đẳng giới, không bị phân biệt đối xử trên mọi lĩnh vực. Hay nói cách khác, phụ nữ có quyền quyết định những gì thuộc về họ và pháp luật bảo vệ những quyền đó như: quyền được sống, quyền được tôn trọng danh dự, bất khả xâm phạm về danh dự, thân thể, tự do ngôn luận, tự do chính kiến, tự do tín ngưỡng, được tham gia vào các quá trình hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội; được bỏ phiếu (bầu cử), nắm giữ chức vụ công, làm việc, nhận mức lương bình đẳng, công bằng, nắm giữ tài sản riêng, tiếp nhận giáo dục, phục vụ trong quân ngũ. Những điều kiện đó là rất cần thiết để phụ nữ có thể độc lập thực hiện tốt quyền của giới mình trong đời sống xã hội văn minh, và cần phải được Nhà nước thừa nhận, bảo vệ một cách vô điều kiện.
Thực hiện quyền của phụ nữ ở Việt Nam trên thực tế đã được Đảng, Nhà nước, Chính phủ quan tâm và có nhiều chính sách bảo đảm để quyền đó được thực hiện theo đúng Hiến pháp của Việt Nam cũng như các cam kết thuộc công ước quốc tế. Trong Chánh cương vắn tắt năm 1930 của Đảng đã nêu rõ: “về phương diện xã hội thì: a, dân chúng được tự do tổ chức. b, nam nữ bình quyền”(2). Là lãnh tụ vĩ đại của phong trào cách mạng Việt Nam, suốt đời, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thực hiện đấu tranh giải phóng phụ nữ để giành quyền lợi về phía phụ nữ, bởi theo Người: Dân tộc chưa độc lập thì quyền lợi của phụ nữ chưa được giải phóng, quyền phụ nữ gắn liền với quyền dân tộc, quyền của giai cấp và quyền của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau”(3).
Theo đó, thực hiện tranh quyền cho phụ nữ là giành quyền toàn diện về chính trị, tư tưởng, xã hội, giúp cho chị em được giảm nhẹ gánh nặng đôi vai và giảm thiểu cường độ lao động về chân tay. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đào tạo phụ nữ trẻ trở thành những công dân mới xã hội chủ nghĩa, vừa biết lao động chân tay, vừa biết lao động trí óc, tạo mọi điều kiện cho phụ nữ học văn hóa, khoa học - kỹ thuật, nâng cao trí thức, tự vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ đất nước. Khi đánh giá về tầm quan trọng của việc giành quyền cho phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng giải phóng con người, do đó nếu không giải phóng phụ nữ, một phần nửa xã hội thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thật sự đem lại quyền và lợi ích cho phụ nữ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ những năm đổi mới (năm 1986), khi Công ước CEDAW Liên hợp quốc (Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ) chính thức được thực hiện ở Việt Nam, thì vấn đề quyền của phụ nữ đã thu được nhiều kết quả tích cực: nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế, văn hóa kém phát triển, về quyền của phụ nữ đã được cải thiện; phụ nữ ngày càng có nhiều cơ hội thể hiện và khẳng định vị trí, vai trò của mình trong gia đình cũng như các hoạt động chính trị - xã hội; tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý nhà nước tăng lên, hoạt động của các nữ doanh nhân, chủ doanh nghiệp, hoạt động giao lưu đối ngoại khu vực, quốc tế, số lượng ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng tăng. Quyền của phụ nữ ngày càng được pháp luật, xã hội thừa nhận và tôn trọng bảo đảm thực hiện.
Tuy nhiên, trong từng giai đoạn, ở nhiều thời điểm, việc thực hiện quyền của phụ nữ còn hạn chế, bất cập. Nhiều phụ nữ bị xâm hại đến quyền, sức khỏe, thân thể và chịu những định kiến về giới trong xã hội. Nhiều quyền phụ nữ không những không được thực thi như đã cam kết mà còn bị khước từ dưới lễ giáo phong kiến và tâm lý bảo thủ trì trệ, gia trưởng của nhiều thành phần trong xã hội. Ở nhiều địa phương, trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, phụ nữ bị xâm hại, đẩy phụ nữ đến những cảnh tiêu cực. Những hành động bất bình đẳng giới đã kéo lùi sự phát triển của xã hội bằng những động lực mù quáng, tàn nhẫn đối với phụ nữ. Thực tế cho thấy, kinh tế càng nghèo nàn, lạc hậu thì tâm lý phân biệt phụ nữ càng nặng nề. Thực thi đầy đủ và triệt để quyền của phụ nữ là vấn đề cấp thiết mang ý nghĩa chiến lược ở cả tầm khu vực và quốc tế, là mục tiêu thiên niên kỷ của Việt Nam. Đây là vấn đề quan trọng, là động lực để thúc đẩy phát triển xã hội. Do vậy, việc quán triệt quan điểm của Đảng về thực hiện quyền của phụ nữ và bình đẳng giới trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là nội dung rất quan trọng, cần được tổ chức học tập, phổ biến đến từng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
Giành quyền toàn diện cho phụ nữ
Một là, xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ.
Vấn đề này giữ vai trò nòng cốt, quan trọng hàng đầu trong việc xác lập quyền của phụ nữ. Thực chất của vấn đề này là xác lập sự bình đẳng về các quyền cho phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và dân sự. Thông qua các biện pháp đẩy nhanh sự bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ đem lại quyền cho phụ nữ. Đồng thời, chấm dứt bạo lực chống lại phụ nữ, tăng cường và nâng cao hiệu quả của thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực chống lại phụ nữ nhằm thay đổi nhận thức, hành vi trong ứng xử với phụ nữ, góp phần tiến tới xóa bỏ bạo lực với phụ nữ. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, mở rộng giáo dục pháp luật, các quy định của pháp luật về bảo đảm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ.
Bên cạnh đó, nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực của người phụ nữ trong gia đình và xã hội thông qua việc tổ chức các buổi sinh hoạt, các lớp tập huấn dành riêng cho chị em phụ nữ, xây dựng các câu lạc bộ và các trung tâm tư vấn về hôn nhân và gia đình cho chị em. Phát triển kinh tế phải kết hợp với phát triển văn hóa, giáo dục để nâng cao trình độ dân trí nói chung, nhất là trình độ dân trí cho chị em phụ nữ khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng các thiết chế gia đình bền vững được xem là giải pháp nội lực để phòng tránh bạo lực gia đình.
Các cấp ủy, chính quyền địa phương tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra đối với công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Chuẩn hóa và đưa các mục tiêu bình đẳng giới vào kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội hằng năm ở từng địa phương. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, người lao động, trong lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân, thường xuyên theo dõi kiểm tra việc lưu hành các sản phẩm văn hóa thông tin có nội dung định kiến giới. Thực hiện đa dạng hóa việc huy động các nguồn lực từ Nhà nước và cộng đồng xã hội để thực hiện kế hoạch bố trí ngân sách cho việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Tăng cường, thường xuyên kiểm tra, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành, liên ngành trong các hoạt động bình đẳng giới.
Hai là, tăng cường giáo dục, đào tạo cán bộ nữ và tạo điều kiện cho phụ nữ học tập, nâng cao trình độ.
Giáo dục, đào tạo cán bộ nữ là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng đối với công tác quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ. Việc giáo dục, đào tạo phụ nữ sẽ trực tiếp tạo ra nguồn nhân lực nữ có chất lượng cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, mẫu mực về đạo đức lối sống. Phụ nữ được đi học, đi đào tạo ở tất cả các cấp học, ngành học, trong mọi lĩnh vực lý thuyết cũng như thực hành, kể cả những ngành, những lĩnh vực mà trước kia chỉ có nam giới đảm nhiệm. Trong đó, bồi dưỡng kiến thức, hoàn thiện chức danh, học hàm, học vị cho đội ngũ trí thức nữ là một trong những vấn đề trung tâm.
Chủ động phát hiện cán bộ nữ có năng lực, có tinh thần trách nhiệm với công việc để cử đi đào tạo, bồi dưỡng kiến thức phù hợp với nhu cầu công việc, nhất là phụ nữ vùng dân tộc thiểu số. Do đặc thù tuổi nghỉ hưu của phụ nữ thấp hơn nam giới 05 năm, trong việc chọn, cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng cần tính đến yếu tố đó để cử cán bộ nữ đi học trước (nếu cùng điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ) nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ đủ thời gian tham gia các chức danh lãnh đạo, quản lý.
Ngoài ra, đối với bản thân cán bộ, công chức nữ cũng phải tự kiểm điểm lại việc thực hiện nhiệm vụ của mình, cố gắng học tập nâng cao trình độ, nhất là những mặt còn hạn chế để tự khẳng định mình, phải vươn lên để bình đẳng với nam giới về trình độ, về năng lực quản lý kinh tế và quản lý xã hội, chủ động quyết tâm khắc phục khó khăn, phải tự tin, tự lực, tự cường, không nên tự ty, “ngồi chờ Chính phủ chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình” (4).
Ba là, trao quyền cho phụ nữ.
Đây là điều kiện mang tính chất quyết định đến việc thực hiện quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. Thực hiện trao quyền cho phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quyền tham gia vào lãnh đạo, quản lý nhà nước, quyền kinh doanh, buôn bán và hội nhập thị trường quốc tế, quyền hưởng thụ, lao động và cống hiến cho xã hội…
Việc trao quyền cho phụ nữ cần gắn với khơi dậy ý chí vươn lên của chị em phụ nữ, phát huy được tiềm năng, động lực của mỗi cá nhân phụ nữ. Bản thân phụ nữ cần mạnh dạn khẳng định vị trí, vai trò và xác lập quyền thực sự của mình trong đời sống xã hội, xóa bỏ tự ti mặc cảm, phấn đấu vươn lên trong mọi điều kiện hoàn cảnh để giữ vững và phát huy những quyền mà xã hội đã trao cho mình.
Trong thực hiện trao quyền cho phụ nữ cần chú ý đến việc phát triển kinh tế cần gắn với tiến bộ xã hội, xóa đói, giảm nghèo cho phụ nữ. Lấy mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho xã hội nói chung và phụ nữ nói riêng làm mục tiêu xuyên suốt. Xây dựng cơ chế, chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật, các chương trình, đề án, dự án liên quan đến quyền, lợi ích của phụ nữ. Đồng thời, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật liên quan đến quyền của phụ nữ. Hình thành bộ máy quản lý nhà nước có hiệu quả và triển khai lồng ghép vấn đề về quyền cho phụ nữ vào các chương trình, sáng kiến ở các cấp chính quyền địa phương, các ban, ngành trong toàn hệ thống chính trị.
Bốn là, chính bản thân phụ nữ phải đấu tranh để giữ lấy quyền của giới mình.
Hơn tất cả mọi điều chính là bản thân chị em phụ nữ phải tự phấn đấu vươn lên để thoát khỏi tâm lý tự ti, bó hẹp để đấu tranh giải phóng đòi quyền lợi cho chính mình và giới mình, góp công sức, trí tuệ của mình trong xây dựng đất nước. Trong bài viết Phải thật sự bảo đảm lợi quyền của phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Bản thân phụ nữ thì phải đấu tranh tự cường, tự lập để giữ lấy lợi quyền của mình”(5). Người cho rằng: Muốn làm được điều đó thì phụ nữ các tầng lớp phải đoàn kết chặt chẽ, nâng cao giác ngộ chính trị, yêu chuộng lao động, quý trọng của công, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt ra yêu cầu cao đối với phụ nữ việc học tập để nâng cao trình độ, nhận thức cho ngang tầm với đàn ông trong mọi lĩnh vực của đời sống. Người cho đây là chìa khóa của sự nghiệp tranh quyền cho phụ nữ. Vì, không có kiến thức, không nhận biết được pháp luật và quyền lợi của giới mình thì sẽ không phát huy được quyền của giới mình trong hoạt động chính trị cũng như cuộc sống. Trước khi đi xa, trong “Di chúc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”(6). Những câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngắn gọn, xúc tích nhưng chứa nhiều hàm ý sâu sắc, như những lời răn dạy, chỉ dẫn quý báu đối với Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp và bản thân phụ nữ trong đấu tranh thực hiện quyền của phụ nữ và xây dựng xã hội mới trong giai đoạn hiện nay./.
----------------------------
(1) Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 163
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2011, tr.1
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 260
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2011, tr. 301
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2011, tr. 523 - 524
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2011, tr. 617
Thủ tướng tham dự Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN năm 2017  (12/05/2017)
Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Phu nhân bắt đầu chuyến thăm cấp nhà nước tới Trung Quốc  (11/05/2017)
Công bố Bộ tiêu chí đánh giá thực hiện MDG cho các Nghị viện  (11/05/2017)
- Vai trò của Hội Xuất bản Việt Nam trong việc phát triển ngành xuất bản và nguồn nhân lực ngành xuất bản
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 2)
- An ninh nguồn nước ở Thái Lan và hàm ý cho Việt Nam
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên