Làm cho văn hóa trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền kinh tế số là yêu cầu quan trọng để khai thông nguồn lực văn hóa góp phần trực tiếp tạo nên bước đột phá cho phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới.

Đánh giá về môi trường văn hóa, các yếu tố tác động

Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn; là trình độ phát triển lịch sử của xã hội và của con người biểu hiện trong các kiểu, trong các cách thức tổ chức đời sống và hành động của con người, cũng như trong các giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra và được tích lũy lại, được làm phong phú thêm trong quá trình con người tương tác với thiên nhiên và trong quan hệ với nhau trong xã hội. Do vậy, ngay cả những di sản thiên nhiên được con người bảo tồn, được con người chỉnh trang, tu sửa và nâng cấp,... cũng là sản phẩm văn hóa cần được huy động phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước.

Đời sống văn hóa là những hành vi sống, biểu hiện một trình độ văn hóa, bao gồm các hoạt động của xã hội của tập thể, của từng cá nhân nhằm mục đích văn hóa hoá, tức là hoàn thiện con người. Đời sống văn hóa bao gồm các yếu tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật thể, các thiết chế văn hóa); các yếu tố văn hóa động thái (con người và các hoạt động). Một số công trình nghiên cứu cho rằng đời sống văn hóa bao gồm 4 yếu tố: văn hóa vật thể và phi vật thể; cảnh quan văn hóa; văn hóa cá nhân; văn hóa của các “tế bào” trong cộng đồng, Khái quát lại, đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm tổng thể những yếu tố hoạt động văn hóa vật chất và tinh thần, những tác động qua lại lẫn nhau trong đời sống văn hóa để tạo ra những quan hệ có văn hóa trong cộng đồng, trực tiếp hình thành nhân cách và lối sống của con người.

Nói một cách khái quát: đời sống văn hóa là hiện thực sinh động các hoạt động của con người trong môi trường sống để duy trì, đồng thời tái tạo các sản phẩm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không ngừng tác động, biến đổi tự nhiên, xã hội đáp ứng nhu cầu đổi mới nâng cao chất lượng sống của chính con người.

Trong thời kỳ mới, trước tác động nhiều mặt của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đời sống văn hóa cũng bộc lộ những hạn chế.

Năm 1998, Đảng ta ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII), năm 2014, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Cả 2 nghị quyết đều khẳng định vị trí, tầm quan trọng chiến lược của sự nghiệp phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Nghị quyết cũng chỉ ra mục tiêu chung của sự nghiệp phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập quốc tế của đất nước là: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Có thể xem Nghị quyết số 33-NQ/TW chính là đường lối văn hóa của Đảng trong chặng đường tiếp theo của công cuộc đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế của đất nước, dân tộc ta. Nghị quyết số 33-NQ/TW là bước phát triển mới, có tính đột phá trong đường lối văn hóa của Đảng, phù hợp với đòi hỏi của thời đại và của sự nghiệp phát triển bền vững đất nước. Với việc khẳng định, rằng “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.” và “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa”, Nghị quyết này đã đánh dấu một tầm vóc mới trong nhận thức lý luận của Đảng về văn hóa, thể hiện tầm nhìn thời đại và tính khoa học, tính thực tiễn của đường lối, đảm bảo chính sách phát triển văn hóa gắn với phát triển con người và với sự nghiệp phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, kể từ sau khi ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW đến nay, chỉ trong thời gian ngắn, tình hình thế giới và Việt Nam đều đã có những biến chuyển mau lẹ, làm bộc lộ rõ hơn nhiều vấn đề, thách thức mới. Yêu cầu xây dựng môi trường văn hóa (có đời sống văn hóa) lành mạnh tiếp tục được đặt ra, định hướng là: 1. Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có hiệu quả mục tiêu: xây dựng văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. 2. Trong điều kiện thế giới toàn cầu hóa và cạnh tranh khốc liệt về rất nhiều mặt hiện nay, một dân tộc muốn tồn tại và hơn nữa muốn phát triển nhanh, bền vững thì nhất định văn hóa phải thấm vào mọi mặt của đời sống xã hội. Đặc biệt, văn hóa phải thấm vào từng con người đang giữ vai trò sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học, văn học và nghệ thuật; vào lĩnh vực chính trị với tư cách là văn hóa chính trị.

Văn hóa phải thấm vào kinh tế với tư cách là văn hóa kinh doanh, văn hóa du lịch, văn hóa doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp; văn hóa giao thông. Văn hóa càng phải thấm sâu vào công tác tổ chức, quản trị và điều hành đất nước. Đồng thời, trong điều kiện thế giới hiện nay, văn hóa giao tiếp và văn hóa ứng xử trong xã hội giữa người với người, giữa dân tộc này với dân tộc khác là những gì không thể thiếu, thậm chí hơn lúc nào hết, văn hóa cũng phải thấm vào trong cung cách ứng xử của con người với thiên nhiên, với môi trường sống của chúng ta, v.v.. Chính vì vậy, cả các giá trị văn hóa truyền thống lẫn văn hóa hiện đại của dân tộc, phải góp phần thôi thúc con người tự nhận thức, tự ý thức và thực thi trách nhiệm xã hội của mình đối với đất nước một cách tốt nhất trong mọi lĩnh vực họat động. 

Một số vấn đề vấn đề đặt ra và giải pháp

Giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển

Đây là một trong những vấn đề cơ bản nhất của công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa và cũng là nguyên nhân nảy sinh rất nhiều vấn đề đang đặt ra đối với nền văn hóa Quảng Ninh hiện nay. Nhờ có nhận thức mới, có chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, có thêm đầu tư từ NSNN và từ cộng đồng nên nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật đã và đang được bảo tồn và phát huy tốt giá trị; nhiều di sản đã được UNESCO vinh danh hoặc công nhận,… Tuy nhiên, cũng có nhiều di sản, di tích đã bị xâm hại, làm biến dạng, xuống cấp nghiêm trọng; có nhiều di sản đã bị biến mất hoàn toàn. Một số nơi, một số di sản văn hóa đã không tìm được phương thức hội nhập với phát triển. Cá biệt có những trường hợp đẩy nhà quản lý và cộng đồng đến chỗ lúng túng, xung đột vv… Vì vậy, trước hết cần xác định rõ: nền tảng của việc giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển chính là các nguyên tắc của phát triển bền vững. Phát triển bền vững là sự phát triển hài hòa dựa trên 5 trụ cột: kinh tế, tài nguyên thiên nhiên và môi trường, chính trị, xã hội và văn hóa, trong đó, mỗi trụ cột sẽ đóng vai trò vừa là mục tiêu, vừa là một nguồn lực phát triển trên cơ sở của hai nguyên tắc: sự phát triển phồn thịnh của thế hệ này không được phép lấy đi hoặc tổn hại cơ hội phát triển phồn thịnh của thế hệ sau và sự phát triển phồn thịnh của cộng đồng này không được lấy đi hoặc làm tổn hại cơ hội phát triển và phồn thịnh của cộng đồng khác. Đây chính là nguyên tắc có tính nền tảng để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển ở nước ta.

Di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể đều thuộc đối tượng cần được bảo tồn, theo đúng Luật Di sản văn hóa (2001, sửa đổi và bổ sung năm 2009). Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong thời gian qua, vấn đề bảo tồn thường chỉ được đặt ra đối với bản thân các di sản mà rất ít chú ý đến công việc bảo tồn những yếu tố gắn với di sản, như cảnh quan, không gian kiến trúc và không gian xã hội nhân văn. Trong điều kiện đang trải qua quá trình CNH, HĐH và đô thị hóa sôi động với nhiều biến chuyển sâu sắc và mạnh mẽ thì việc bảo tồn các di sản gắn với môi trường sống của chúng thực sự là một thách thức.

Bảo tồn phải trở thành nhu cầu đối với sự phát triển và trở thành một nguồn lực phát triển, và không gây xung đột với phát triển. Giới nghiên cứu trên thế giới đã hình thành 3 “trường phái”, đề xuất những lựa chọn giải pháp bảo tồn khác nhau:1. Bảo toàn nguyên trạng và toàn bộ: bởi lẽ chỉ với tính nguyên trạng và toàn bộ của nó, giá trị của di sản mới được đảm bảo và chân xác. Hơn nữa, có thể có những giá trị còn tiềm ẩn nên phải bảo tồn nguyên vẹn để cho các thế hệ sau tiếp tục khám phá. 2. Bảo tồn kế thừa: Mỗi di sản là một tài sản được thế hệ trước truyền lại, để lại cho thế hệ sau, thế hệ sau thừa kế nó như bất kỳ tài sản nào. Họ lựa chọn cái phù hợp, cái cần thiết, loại bỏ cái không phù hợp, không cần thiết theo nhu cầu và quan điểm của họ. Trong quá trình đó các di sản luôn được bồi đắp thêm những thành tố mới, bổ sung những giá trị mới. Có như vậy di sản văn hóa mới thực sự “sống” và luôn luôn là một phần của cuộc sống nhân loại. 3. Bảo tồn phát triển: Đây là quan điểm được nhiều nhà nghiên cứu tán đồng và nhiều quốc gia đang vận dụng và thực tiễn. Di sản được coi như một nguồn lực cho phát triển và chúng được bảo tồn là để phục vụ cho mục tiêu phát triển. Ngoài ra, cái gì không phù hợp với mục tiêu phát triển thì sẽ không được bảo tồn.

Đối với mỗi di sản, cần phải nghiên cứu thật cẩn trọng, phân tích, đánh giá từng bộ phận cấu thành, trên cơ sở đó xác định những thành tố nào, những giá trị nào cần được bảo tồn toàn vẹn, nguyên bản, thành tố nào, giá trị nào cần được bảo tồn theo nguyên tắc kế thừa hoặc phát triển. Thứ hai, cần phải thực hiện nghiêm chỉnh Luật Di sản văn hóa và các công ước quốc tế, các quy định và hướng dẫn của UNESCO. Thứ ba, cần đặc biệt chú ý việc hỗ trợ, nâng cao năng lực và phát huy vai trò của cộng đồng dân cư trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Có 4 năng lực cốt lõi cần giúp cho các cộng đồng cư dân được nâng cao: 1. Năng lực nhận thức: nhận thức rõ về giá trị di sản; nhận thức pháp luật liên quan đến bảo tồn và phát huy giá trị di sản; nhận thức về vai trò, quyền hạn của chính họ; nhận thức về yêu cầu, phương thức, phương tiện phát huy giá trị di sản. 2. Năng lực tuyên truyền, quảng bá giá trị di sản: trên nền tảng của năng lực nhận thức, người dân làm chủ được và thực hành được các kỹ năng và phương tiện quảng bá, tuyên truyền về giá trị di sản và bảo tồn giá trị di sản. 3. Năng lực thực hành, tham gia bảo tồn và phát huy giá trị di sản: tham gia bảo tồn, bảo vệ, chăm sóc, tôn tạo, trình diễn (với di sản phi vật thể), trao truyền, hướng dẫn và giám sát công tác bảo tồn, quản lý di sản. 4. Năng lực chuyển đổi sinh kế và phát triển tài chính: duy trì, phát huy hoặc chuyển đổi sinh kế đồng thuận với yêu cầu bảo tồn và phát huy giá trị di sản; trên cơ sở những hỗ trợ ban đầu phát triển không ngừng nguồn tài chính của cư dân địa phương để giảm thiểu “bóc lột” di sản, góp phần tái đầu tư để bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Thứ tư, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, nhất là hành lang pháp lý, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ và các cơ quan quản lý nhà nước.

Giải quyết mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế, tiếp thu ảnh hưởng văn hóa của thế giới và bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống

Do vị thế địa - văn hóa của mình nên trong suốt chiều dài lịch sử, Quảng Ninh đã có cơ hội giao lưu, tiếp xúc với nhiều nền văn minh, văn hóa, nhờ đó mà tiếp nhận, thâu thái có chọn lọc được nhiều tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là truyền thống lớn cần được kế thừa và phát huy, củng cố thế ứng xử văn hóa rộng mở, khoan dung, cầu thị và bản lĩnh của dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa.

Thực chất mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam và tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa nhân loại trong quá trình hội nhập quốc tế cũng chính là một nội dung nằm trong mối quan hệ phức tạp, nan giải giữa bảo tồn và phát triển vừa được phân tích ở bên trên. Đây cũng là vấn đề thường xuyên gây ra những quan ngại sâu sắc ở nhiều quốc gia khác chứ không phải là vấn đề riêng của Quảng Ninh hay Việt Nam.

Giải pháp trong bối cảnh toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa văn hóa là một nội dung của quá trình toàn cầu hóa, quá trình này cũng có cả những mặt tích cực và mặt tiêu cực. Vì vậy, chúng ta cần nhận rõ những mặt tích cực để phát huy, đồng thời nhận rõ những mặt tiêu cực để ngăn ngừa, phòng tránh, hạn chế. Không nên tuyệt đối hóa mặt nào và cũng không thể cực đoan tiếp nhận một chiều hoặc cự tuyệt hội nhập.

Về các mặt tích cực: toàn cầu hóa văn hóa là quá trình đối thoại, giao lưu, tiếp biến văn hóa trên quy mô toàn cầu và ở mức độ ngày càng sâu rộng và toàn diện.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về văn hóa lần này chính là cơ hội rất tốt để dân tộc ta tiếp xúc sâu rộng và thuận tiện hơn với văn hóa, văn minh nhân loại, thông qua đó mà các thế hệ người Việt Nam, nhất là thanh niên, có điều kiện hiểu biết sâu rộng, chính xác hơn về thế giới, chủ động học hỏi, tiếp thu những cái hay, cái tốt của thế giới. Thông qua toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về văn hóa dân tộc ta có thêm điều kiện thuận lợi để giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam, hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam ra nước ngoài. 

Về các mặt tiêu cực: Toàn cầu hóa văn hóa sẽ dẫn đến hiện tượng xâm thực văn hóa, là cái mà nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam đặc biệt quan ngại. 

Hai quá trình nói trên sẽ dẫn đến hệ quả là làm tha hóa một bộ phận thế hệ trẻ, khiến cho họ bị mất gốc, quay lưng lại với giá trị truyền thống, với gia đinh, xã hội và dân tộc..

Để cơ sở giải quyết các vấn đề đặt ra, nhận diện các mặt tích cực và tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa văn hóa và hội nhập quốc tế, có thể nhấn mạnh một số nhóm giải pháp cơ bản sau đây:

Thứ nhất, tích cực, chủ động, kiên trì xây dựng hành trang văn hóa hội nhập cho dân tộc, nhất là cho các thế hệ thanh niên. việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại và phát huy những mặt tích cực của toàn cầu hóa văn hóa gặp nhiều khó khăn, trong khi những mặt tiêu cực chậm hoặc không được nhận diện, mặc sức phát huy tác động, gây nhiều bức xúc, đưa tới những hậu quả không nhỏ. Vì vậy, công việc chu động chuẩn bị hành trang văn hóa hội nhập cho dân tộc, nhất là thanh niên phải được xem là một trong những nội dung cốt lõi của công tác giáo dục, tuyên truyền, lãnh đạo và quản lý văn hóa, thông tin, truyền thông và của toàn xã hội.

Hai là, phát triển thành công công nghiệp văn hóa, bao gồm cả công nghiệp giải trí chính là chìa khóa thành công của sự nghiệp chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa ở nước ta hiện nay. Thông qua đó, các giá trị văn hóa ưu tú của dân tộc sẽ được phát huy và thực sự trở thành một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh mềm và năng lực cạnh tranh. Nhà nước đã ban hành Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa nhưng cho đến nay chưa có nhiều chuyển động thực tiễn. Cần nghiên cứu và tháo gỡ các khó khăn để triển khai thật hiệu quả chiến lược này.

Ba là, nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành và quản lý văn hóa để một mặt đẩy mạnh hợp tác, thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa. Mặt khác, phải tăng cường kỷ cương, hiệu quả của công tác quản lý, phát huy vai trò giám sát của nhân dân để kiên quyết ngăn chặn sự du nhập những yếu tố văn hóa tiêu cực, phản tiến bộ, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Trên cơ sở đánh giá, nhận diện các giá trị văn hóa, con người Quảng Ninh cần phân tích, làm rõ hơn các phương thức, hình thức khơi dậy và phát huy giá trị văn hóa, con người phù hợp với đặc điểm đặc thù, với tiềm năng, lợi thế của tỉnh Quảng Ninh; tiếp tục nhận diện ra những vấn đề tồn tại, khó khăn khi Quảng Ninh là tỉnh đang phát triển nhanh về kinh tế, đô thị nhưng luôn phải đặt mục tiêu bảo tồn, phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa. Đồng thời các ý kiến cũng gợi mở cho Quảng Ninh nhiều giải pháp để phát huy hiệu quả các giá trị văn hóa, con người thực sự trở thành nguồn lực cho phát triển. Với những nét đặc sắc nổi trội và các thương hiệu riêng có của địa phương; các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, các doanh nghiệp đã có nhiều ý kiến, tập trung vào một số vấn đề, cụ thể:

Thứ nhất, gợi mở cho Quảng Ninh về một số ý tưởng, giải pháp để tiếp tục xây dựng hoàn thiện văn hóa chính trị, văn hóa gia đình, văn hóa học đường, văn hóa kinh tế để khẳng định quyết tâm xây dựng môi trường xã hội văn minh

Thứ hai, nêu lên một số giải pháp thúc đẩy các thiết chế văn hoá hiện đại, đặc sắc, tạo điểm nhấn trong kiến trúc đô thị di sản gắn với xây dựng thương hiệu địa phương. Gợi mở ý tưởng kiến trúc đô thị để khẳng định chủ quyền bằng bản sắc văn hóa đặc sắc của Quảng Ninh - Việt Nam.

Thứ ba, những cách thức, giải pháp để khơi dậy, phát huy giá trị các di sản của Quảng Ninh không chỉ trong phạm vi địa phương mà hướng đến tầm quốc gia, khu vực, quốc tế. Giải pháp để bảo tồn giá trị đặc trưng văn hóa biển vùng Đông Bắc, văn hóa và truyền thống Kỷ luật - Đồng tâm của công nhân Mỏ. Gợi mở các vấn đề cần quan tâm để vừa bảo tồn, gìn giữ, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại, phát huy cao nhất các giá trị văn hóa cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, gợi mở giải pháp cho Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp văn hóa của Quảng Ninh dựa trên nguồn lực là các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, đặc biệt là di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long và các không gian mở vô cùng thuận tiện cho các hoạt động văn hóa - nghệ thuật cộng đồng, có thể tạo ra các điều kiện lý tưởng cho một nền công nghiệp văn hóa có sức thu hút lớn. Các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, các doanh nghiệp đã cùng có nhiều ý kiến, đề nghị cần có các cơ chế, chính sách, nguồn lực đặc thù cho lĩnh vực này.

Thứ năm, tại Hội thảo các chuyên gia, nhà khoa học đã làm rõ những khái niệm, chỉ ra mô hình, quy trình để quảng bá thương hiệu địa phương; các giải pháp để thực hiện định hướng chiến lược quảng bá thương hiệu cho tỉnh Quảng Ninh.

Thứ sáu, các nhà khoa học đều có ý kiến thống nhất về việc cần có cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội nhằm huy động, phân bổ các nguồn lực đầu tư cho phát triển bền vững các di sản địa phương, đặc biệt, quan tâm đến bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trở thành sản phẩm du lịch để thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương tại khu vực vùng miền núi, biển đảo tạo sinh kế bền vững cho người dân.

Thứ bảy, gợi mở các kiến nghị chính sách của tỉnh với Trung ương; kiến nghị cơ chế, chính sách cụ thể của các địa phương với tỉnh./.