Xây dựng nền văn hóa Việt Nam ngày càng bền vững, tiến bộ, bản sắc, tương xứng với trình độ phát triển kinh tế - xã hội hiện nay theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
TCCS - Văn hóa là nền tảng tinh thần, động lực và mục tiêu phát triển của nhân loại trong mọi thời kỳ lịch sử. Ở Việt Nam, phát triển nền văn hóa ngày càng tiến bộ, bền vững, tương xứng với trình độ phát triển kinh tế - xã hội là mục tiêu mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng. Trong bối cảnh mới, bên cạnh nhiệm vụ giữ gìn, khai thác, phát huy các giá trị văn hóa, cần chú trọng đầu tư “tương ứng”, “ngang hàng” cho văn hóa trong so sánh với các lĩnh vực khác, góp phần tạo nguồn lực, động lực xây dựng đất nước ngày càng phát triển giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc.
Quan điểm, tư tưởng của Đảng về vai trò “then chốt” và vị trí “ngang hàng” của văn hóa với các thành tố khác của đất nước
Văn hóa là yếu tố “cốt lõi” trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, có sự hiện diện, tác động đến mọi mặt đời sống xã hội và quyết định con đường phát triển mỗi địa phương, quốc gia - dân tộc; là “những gì tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ”(1). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xác định: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(2). Theo đó, việc giữ gìn, phát huy vai trò của yếu tố văn hóa, sức mạnh con người đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, hội nhập quốc tế là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; định hướng cơ bản để phát triển đất nước bền vững là phải đặt văn hóa ở vị trí nền tảng tinh thần của dân tộc, cội nguồn, động lực sức mạnh nội sinh trong mọi giai đoạn.
Trải qua hàng nghìn năm lao động, sáng tạo, đấu tranh kiên cường để dựng nước và giữ nước, đồng thời tiếp thu thành tựu tinh hoa văn hóa nhân loại, cộng đồng các dân tộc nước ta đã hình thành và gìn giữ một nền văn hóa Việt Nam với những giá trị độc đáo, chứa đựng sự đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc, đặc biệt là truyền thống đoàn kết, giàu lòng yêu nước, chuộng hòa bình, luôn hướng đến sự tiến bộ, văn minh. Những giá trị truyền thống, văn hóa nổi bật được biểu hiện ở ý chí tự lực, tự cường, ý thức cộng đồng gắn kết giữa cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; sự dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống cái xấu, cái ác,... Hiện nay, nền văn hóa dân tộc ta còn có sự gắn kết chặt chẽ giữa ý thức bảo vệ, củng cố nền độc lập dân tộc với định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng, kim chỉ nam của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tất cả cùng hướng tới mục tiêu vì hạnh phúc và sự phát triển con người toàn diện.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích “văn hóa” bao hàm các hoạt động vật chất và tinh thần của con người cùng với các giá trị mà con người sáng tạo ra; chính nhu cầu thực tế đời sống, đòi hỏi từ sự sinh tồn của con người với tư cách chủ thể hoạt động của đời sống xã hội chính là nguồn gốc, động lực sâu xa của văn hóa(3); theo đó, Người luôn đề cao vai trò của văn hóa trong công cuộc kiến thiết đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, đặt ngang hàng với các lĩnh vực, thành tố khác của xã hội, rằng “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”(4). Kế thừa trí tuệ, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa, đồng thời dựa trên kinh nghiệm thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong tác phẩm Đề cương về văn hóa Việt Nam (được viết năm 1943), Đảng ta sớm khẳng định: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”(5), rằng: Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả(6); mặt khác, “Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế”(7). Đến Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Đảng ta đề ra nhiệm vụ cấp thiết: Bổ sung chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc (tháng 11-2021), đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc của Đảng, một nhân cách văn hóa lớn nhấn mạnh, phải khắc phục tư tưởng “duy kinh tế”, chỉ tập trung nguồn lực phát triển kinh tế mà ít quan tâm đến văn hóa; đồng thời, không ngừng “giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, nhân cách con người, nâng cao bản lĩnh và ý thức dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc, làm cho phát triển kinh tế thị trường mà không băng hoại giá trị đạo đức xã hội, “hội nhập mà không hòa tan””(8).
Thực tế, văn hóa không phải là kết quả thụ động, phụ thuộc hoàn toàn vào kinh tế, cũng “không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(9), bởi xét cho cùng, giữa các yếu tố văn hóa, kinh tế với chính trị luôn có mối quan hệ biện chứng, có tác động qua lại, cụ thể: “Nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia”(10). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt trọn niềm tin, kỳ vọng vào đội ngũ văn, nghệ sĩ, trí thức bởi họ gánh vác những trọng trách quan trọng trong cuộc kháng chiến, kiến quốc, “xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(11). Đến Đại hội XII, Đảng ta xác định rõ hơn, phải “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân”(12); đặc biệt, nhiệm vụ quan trọng là nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn “...giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(13), trong đó xác định yếu tố kinh tế là cơ sở, bởi “Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”(14).
Cần khẳng định rằng, một xã hội khó có thể ổn định và phát triển bền vững nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ chủ yếu mà bỏ quên, hoặc thậm chí sẵn sàng hy sinh giá trị văn hóa; do đó, phải chú trọng xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn trong sáng tạo, xác lập những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy, lan tỏa những giá trị tốt đẹp, tiềm năng, sức sáng tạo của người dân. Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ, phải thực hiện hiệu quả các giải pháp phù hợp “nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội”(15); quan trọng hơn, hướng đến hiện thực hóa mục tiêu phát triển “con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”(16).
Phát triển văn hóa Việt Nam trong bối cảnh mới
Đảng và Nhà nước ta xác định: Nếu yếu tố kinh tế đứng độc lập sẽ không thể tạo ra sự phát triển bền vững, ổn định, theo đó, văn hóa dần được thừa nhận là nguồn động lực, “chỉ tiêu mặc định” quan trọng trong quá trình phát triển và một khi văn hóa trì trệ thì sẽ không có bất cứ sự phát triển kinh tế - xã hội nào(17). Dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 94 năm qua, việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đạt được những thành tựu quan trọng, đặc biệt là kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (năm 1986) đến nay: Nhận thức về vai trò của văn hóa trong Đảng và trong nhân dân ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn; nhiều chính sách, chiến lược quảng bá, giới thiệu, tuyên truyền hệ thống giá trị văn hóa Việt Nam đến với bạn bè năm châu được thực hiện hiệu quả, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam, nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế; sáng tạo, làm mới nhiều sản phẩm văn hóa đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới của xã hội; đồng thời, “giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực... Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới”(18).
Cùng với đó, Đảng và Nhà nước nỗ lực xây dựng, kiến tạo môi trường thể chế, chính sách để nâng tầm vị thế văn hóa, tạo thuận lợi cho các ngành công nghiệp văn hóa(19) phát triển, góp phần gia tăng giá trị kinh tế của văn hóa và hiệu quả quảng bá hình ảnh đất nước. Nhìn chung, nguồn tài nguyên văn hóa được khai thác, phát huy, chuyển hóa thành sức mạnh mềm của dân tộc, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như hội nhập quốc tế; các ngành công nghiệp văn hóa có nhiều bước chuyển biến mới, đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước (năm 2021 đạt 3,92% GDP, tính đến hết năm 2022 tăng lên 4,04% GDP)(20). Giai đoạn 2018 - 2022, tốc độ tăng trưởng bình quân về số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa đạt 7,21%/năm, riêng năm 2022 có khoảng 70.321 cơ sở đang hoạt động (bình quân thu hút khoảng từ 1,7 đến 2,3 triệu lao động, tăng 7,44%/năm)(21). Đặc biệt, ngày 8-9-2016, Quyết định số 1755/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” được ban hành, tạo khung chính sách thuận lợi hỗ trợ các ngành công nghiệp văn hóa, tạo sức hút, hấp dẫn thông qua nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ văn hóa; ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam được xác định sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp 7% GDP (năm 2030) và tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam hướng đến những giá trị bản sắc, tiến bộ, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội còn một số vấn đề hiện hữu, như tính thụ động, trì trệ, tác phong thiếu kỷ luật, lạc hậu trong tư duy công việc,...; phai nhạt về lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quay lưng lại với giá trị truyền thống của dân tộc, biểu hiện ở việc “Đạo đức, lối sống trong gia đình, học đường, xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, gây bức xúc cho xã hội... Mức hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn khoảng cách lớn”(22)... Thêm vào đó, một số cơ chế, chính sách văn hóa còn chồng chéo, bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn; ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa ở một bộ phận người dân còn mờ nhạt; chưa có nhiều chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả trong giải quyết dứt điểm các vấn đề về biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu - nghèo, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh con người,....
Một trong những nguyên nhân chủ yếu là bởi yếu tố văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước; môi trường văn hóa phải đối mặt với nhiều thách thức, chịu tác động mạnh của yếu tố ngoại lai, đe dọa đến bản sắc văn hóa, thuần phong, mỹ tục; so với các lĩnh vực khác, đầu tư cho lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật chưa tương xứng, còn dàn trải và hiệu quả thấp... Thực tế, thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa nhìn chung vẫn còn khá khiêm tốn, chưa tạo được “sức bật” đủ lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, chính quyền nhận thức chưa đầy đủ nên không chú trọng đúng mức việc phát triển văn hóa; thiếu chỉ đạo quyết liệt trong triển khai xây dựng đời sống, môi trường văn hóa mới lành mạnh; công tác quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật có nơi còn bị xem nhẹ, chậm được đổi mới,... như tổng kết của Đại hội XIII, rằng “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước”(23).
Nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa “ngang hàng” với các lĩnh vực khác theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Thứ nhất, nghiêm túc quán triệt, triển khai, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa, phục vụ công cuộc phát triển đất nước(24); đặc biệt, cần tiếp tục huy động tổng hợp mọi nguồn lực nhằm tập trung chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, xây dựng đồng bộ thiết chế văn hóa cơ sở, phát triển phong trào văn học, nghệ thuật trong quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, chú trọng “nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(25); đẩy mạnh hoạt động quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa có bản lĩnh, năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, giáo viên, những người trực tiếp làm công tác giáo dục trên phương châm “có giáo dục tốt sẽ có công dân tốt”; thiết lập nền tảng đạo đức, văn hóa vững chắc cho thế hệ trẻ - những người chủ tương lai của đất nước.
Thứ hai, quan tâm đúng mức, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, đặt văn hóa trong mối quan hệ biện chứng, có tác động qua lại với các lĩnh vực khác của đời sống; không ngừng nêu cao giá trị tốt đẹp của gia đình, cộng đồng, truyền thống dân tộc Việt Nam, chú trọng gắn kết các hoạt động văn hóa, giáo dục, hành chính, khoa học - công nghệ, lao động, sản xuất,... với nhiệm vụ xây dựng, bồi đắp thế giới quan, nhân sinh quan đúng đắn, nhân văn trên tinh thần “yêu quê hương đất nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”... Mặt khác, chủ động hội nhập quốc tế, tiếp thu phù hợp, chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc, tuy nhiên cần “nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại”(26); ra sức truyền bá, tạo điều kiện thuận lợi để người dân ở nước ngoài, các tổ chức quốc tế cùng tham gia phát triển văn hóa, quảng bá hình ảnh đẹp của đất nước, con người Việt Nam; tiếp tục nêu cao, khơi dậy tinh thần yêu nước, vươn lên, “ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(27). Cùng với đó, bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; phải nhận thức rằng tăng trưởng kinh tế là điều kiện để nhân dân có nhiều cơ hội, khả năng tiếp cận các giá trị văn hóa, đưa xã hội tiến lên phía trước.
Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu, triển khai, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ ngăn chặn, xử lý dứt điểm biểu hiện, hành vi xuống cấp về đạo đức, lối sống, góp phần đẩy lùi tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội, đồng thời “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(28). Chú trọng kiến thiết, tạo lập môi trường và đời sống văn hóa lành mạnh, kiên quyết đấu tranh đẩy lùi việc lợi dụng niềm tin của nhân dân, tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo với âm mưu truyền bá duy tâm thần bí, mê tín dị đoan hòng trục lợi; quyết liệt đấu tranh loại trừ sản phẩm văn hóa độc hại, tư tưởng sai trái, lệch chuẩn, lối sống trái thuần phong mỹ tục, thực dụng, hưởng thụ, nhân cách sống lệch chuẩn,...
Thứ tư, đẩy mạnh công tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, giữ gìn giá trị văn hóa mang tính chất “hồn cốt” của dân tộc; khai thác, phát huy hiệu quả giá trị di sản văn hóa, lịch sử trong phát triển kinh tế thông qua xây dựng “kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội”(29). Mặt khác, tập trung “triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam”(30); thúc đẩy hoạt động thương mại hóa sự sáng tạo nghệ thuật, thẩm mỹ thông qua các ngành sản xuất hàng hóa và dịch vụ văn hóa thể hiện tài sản trí tuệ và ý nghĩa biểu tượng(31) trong nhân dân; nâng cao hàm lượng văn hóa của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp, lấy trình độ văn hóa làm cơ sở xây dựng phương thức nâng cao chất lượng tổng thể của nền kinh tế quốc dân, đồng thời là động lực bên trong để nâng cao năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh hơn nữa trong phát triển hoạt động kinh tế văn hóa(32) trên tinh thần “Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo, sáng tạo có sức lan tỏa để quảng bá, giới thiệu ra thế giới”(33),... hướng tới mục tiêu xây dựng công nghiệp văn hóa thành ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phục vụ nhu cầu văn hóa, tinh thần ngày càng đa dạng của nhân dân, đồng thời, nâng cao sức mạnh mềm văn hóa của đất nước(34).
Thứ năm, tiếp tục tăng cường đầu tư cho lĩnh vực văn hóa tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các loại hình nghệ thuật truyền thống tiêu biểu, cần được bảo tồn, phát huy. Nghiên cứu, ban hành, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi về sử dụng đất, tín dụng, thuế và phí đối với cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn. Mặt khác, khuyến khích sự hình thành và hoạt động quỹ đào tạo, khuyến học, phát hiện, bồi dưỡng nhân tài, quảng bá văn học, nghệ thuật, thúc đẩy sự phát triển điện ảnh, xuất bản... Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; nghiêm túc thực hiện công tác giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa; đẩy mạnh cơ chế phối hợp trong quản lý nhà nước về văn hóa giữa các ban, bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là giữa các cơ quan giáo dục, truyền thông, pháp luật, an ninh./.
---------------------------
(1) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979 (tháng 12-2021), tr. 4
(2) Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4-6-2020, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”
(3) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 458
(4) Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr. 11
(5), (6) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 316
(7) Nghị quyết số 03-NQ/TW, của Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, ngày 16-7-1998, “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
(8) Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024, tr. 246
(9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 246, 316
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 458 - 459
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 299
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 119
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 470
(15), (16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 143, 115 - 116
(17) Xem: Nguyễn Trọng Chuẩn: “Vai trò của nguồn lực văn hóa với quá trình phát triển kinh tế - xã hội”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 10-4-2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/821721/vai-tro-cua-nguon-luc-van-hoa-voi-qua-trinh-phat-trien-kinh-te---xa-hoi.aspx,
(18) Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 24-11-2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-xay-dung-giu-gin-chan-hung-va-phat-trien-nen-van-hoa-cua-dan-toc
(19) Công nghiệp văn hóa đề cập đến các ngành công nghiệp sản xuất ra sản phẩm mang tính nghệ thuật và sáng tạo, có bản chất vật thể hoặc phi vật thể; thông qua khai thác giá trị văn hóa cùng sản phẩm và dịch vụ có tính trí tuệ, có ý nghĩa xã hội và văn hóa để thu về nguồn lợi kinh tế
(20) Xem: TT: “Phát triển công nghiệp văn hóa theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 22-12-2023, https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/phat-trien-cong-nghiep-van-hoa-theo-huong-chuyen-nghiep-hien-dai-656221.html
(21) Xem: N. Hoa: “Các ngành công nghiệp văn hóa đạt được kết quả đáng trân trọng”, Báo Công an nhân dân điện tử, ngày 22-12-2023, https://cand.com.vn/su-kien-binh-luan-thoi-su/de-xuat-cac-nganh-cong-nghiep-van-hoa-dong-gop-7-gdp-vao-nam-2030-i717969/
(22) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 72
(23) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 84
(24) Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 28-11-1987, của Bộ Chính trị, “Về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”; Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Kết luận số 76/KL/TW, ngày 4-6-2020, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”,...
(25), (26), (27), (28) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 143, 147, 34, 143
(29), (30) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, 145
(31) Xem: David Throsb: “Modelling the Cultural Industries” (Tạm dịch: Mô hình hóa các ngành công nghiệp văn hóa), The International Journal of Cultural Policy, tháng 8-2008, tr. 217-232, https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/10286630802281772
(32) Hoạt động kinh tế văn hóa bao gồm bốn khía cạnh chính: Di sản văn hóa, nghệ thuật, truyền thông (phim, phát thanh, truyền hình, âm nhạc, báo chí, xuất bản) và dịch vụ sáng tạo (thiết kế, quảng cáo, phương tiện truyền thông mới, kiến trúc và phần mềm)
(33) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 264
(34) Xem: Vũ Trọng Lâm: “Văn hóa là động lực quan trọng để phát triển kinh tế”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 11-4-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/827251/van-hoa-la-dong-luc-quan-trong-de-phat-trien-kinh-te.aspx
Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực qua gần 40 năm đổi mới  (28/12/2024)
Tỉnh Nam Định xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội  (26/12/2024)
Vấn đề già hóa dân số ở Việt Nam: Thách thức và giải pháp  (27/11/2024)
Để thành phố Hải Phòng xứng đáng là động lực phát triển kinh tế của vùng Bắc Bộ và cả nước  (25/11/2024)
- Tự chủ chiến lược dưới tác động của các vấn đề an ninh phi truyền thống tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam ngày càng bền vững, tiến bộ, bản sắc, tương xứng với trình độ phát triển kinh tế - xã hội hiện nay theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đảng viên trong Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 2)
- Phát huy hệ giá trị con người Việt Nam, hoàn thiện chuẩn mực đội ngũ cán bộ ngành ngoại giao trong thời kỳ mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay