Quán triệt và vận dụng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam

Lê Minh Quân PGS, TS, Phó Vụ trưởng Vụ Các trường chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
21:51, ngày 24-10-2016

TCCS - Đại hội XII của Đảng, trên cơ sở xác định đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, khẳng định tiếp tục quán triệt và xử lý tốt 9 mối quan hệ lớn của công cuộc đổi mới, trong đó mối quan hệ lớn thứ 2 là mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Cụ thể hơn, trong 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta xác định 3/6 nhiệm vụ tập trung vào đổi mới chính trị và kinh tế, 2/6 nhiệm vụ về đổi mới chính trị được đưa lên vị trí hàng đầu. Việc xác định đó cho thấy vị trí và tầm quan trọng của đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và mối quan hệ giữa chúng.

1- Nhìn lại 30 năm đổi mới, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng được xác định như là mối quan hệ cơ bản và quan trọng hàng đầu trong quá trình đổi mới đất nước, là nội dung quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Hơn nữa, nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này còn là khâu đột phá trong lý luận của Đảng về công cuộc đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Cho đến nay, đã có những đổi mới căn bản về sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đã khắc phục một bước lớn những quan niệm và cách làm từng tồn tại trong hàng thập niên trước đây, như nhấn mạnh quá mức vai trò của chính trị đối với kinh tế; xem chính trị là yếu tố quyết định kinh tế và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; nhận thức một cách giản đơn về tác động của chính trị đối với kinh tế; chính trị can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế; chính trị tác động đến kinh tế chủ yếu bằng hệ thống mệnh lệnh hành chính, chủ quan của cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp...

Đồng thời, đã có những đổi mới căn bản về sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước từ trực tiếp bằng kế hoạch thành lãnh đạo, quản lý bằng chính sách; từ chỉ huy, điều hành trực tiếp thành quản lý, điều tiết một cách gián tiếp thông qua vai trò của chính sách, tạo môi trường dân chủ, tự do, chủ động, tự chịu trách nhiệm hơn cho người sản xuất, kinh doanh; thay đổi phương thức tác động của chính trị đối với kinh tế thông qua vai trò của thể chế, chính sách...

Công cuộc đổi mới ở nước ta không phải bắt đầu từ việc đổi mới trong lĩnh vực chính trị, cũng không đồng thời đổi mới ngay lập tức cả hai lĩnh vực chính trị và kinh tế. Vấn đề là ở chỗ, định hướng chính trị ngày càng rõ ràng cho sự phát triển kinh tế; chính sách chuyển đổi cơ chế và cơ cấu kinh tế ngày càng phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn; tạo tiền đề cho việc giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo ra tăng trưởng kinh tế, nâng cao thế và lực của đất nước; phát huy tinh thần sáng tạo, tính tích cực chính trị của nhân dân.

2- Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chưa được nhận thức và giải quyết đúng đắn, kịp thời, nhằm thúc đẩy công cuộc đổi mới tiến lên. Đó là vấn đề phát triển kinh tế thị trường với dân chủ hóa, xây dựng xã hội công bằng, văn minh, phát triển văn hóa, bảo đảm ổn định chính trị, xã hội và bảo vệ môi trường; phát triển kinh tế thị trường với yêu cầu đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với đổi mới hệ thống chính trị... Đó là vấn đề nhận thức đúng và giải quyết hợp lý tính chủ động của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế. Đổi mới chính trị phải nhằm xác lập những bảo đảm chính trị cho phát triển kinh tế; thực hiện quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân. Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, quản lý của Nhà nước phải đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế.

Nguyên nhân khách quan của tình trạng nêu trên là do đổi mới chính trị, hệ thống chính trị trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy dân chủ,... là những vấn đề mới mẻ, khó khăn, phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận. Diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường của tình hình thế giới; sự chống phá của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị.

Nguyên nhân chủ quan của tình trạng nêu trên là do sự chậm trễ trong đổi mới nhận thức về đổi mới chính trị, hệ thống chính trị, thể chế chính trị khi công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu. Việc cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ” chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về đạo đức và lối sống; sự níu kéo của tập quán, thói quen không lành mạnh và lợi ích không chính đáng; công tác nghiên cứu lý luận còn hạn chế, bất cập, kéo theo sự hạn chế của công tác tư tưởng, công tác tổ chức, cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp…, làm cản trở sự phát triển của kinh tế.

3- Về phương hướng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong những năm tới: Trước hết, cần nhận thức đúng vấn đề có tính quy luật là, kinh tế, suy cho cùng, quyết định chính trị, mọi sự biến đổi của chính trị đều là sự phản ánh của biến đổi kinh tế, do kinh tế quy định. Phải từ tình hình kinh tế mà đánh giá tình hình chính trị, từ thực tiễn đổi mới kinh tế mà đánh giá thực tiễn đổi mới chính trị. Đồng thời, chính trị lại có vai trò định hướng, dẫn dắt (thông qua cơ chế, chính sách) đối với kinh tế; chỉ có đổi mới chính trị mới có thể thúc đẩy đổi mới kinh tế (trên cơ sở của các quy luật khách quan của kinh tế và đổi mới kinh tế).

Cần đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong xu thế phát triển của thời đại; tiếp tục đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội; tiếp tục khắc phục “tính tự phát tiểu tư hữu” của xã hội tiểu nông, nâng cao chất lượng phát triển và thực hiện “phát triển rút ngắn”. Xác định những yêu cầu mới từ mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; thực hiện định hướng phát triển bền vững trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện dân chủ trong các hoạt động kinh tế và chính trị; giữ vững độc lập, chủ quyền trong quá trình hội nhập quốc tế; xây dựng nền văn hóa mới ở tầm vóc là nền tảng của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.

Cần đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong mối quan hệ biện chứng với các mối quan hệ khác trong quá trình đổi mới; mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cần được nhận thức và giải quyết như là mục tiêu và điều kiện của việc giải quyết các mối quan hệ khác của công cuộc đổi mới. Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo hướng thiết lập và hoàn thiện thể chế kinh tế - chính trị - xã hội thống nhất, hài hòa; xây dựng kinh tế thị trường hiện đại - chính trị dân chủ - xã hội công bằng, văn minh.

Cần lựa chọn và vận dụng các phương pháp khoa học trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Xác định tầm nhìn biện chứng với phương pháp hệ thống được coi như là một tiêu chí về năng lực lãnh đạo, quản lý và nghiên cứu lý luận về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đổi mới và phát triển văn hóa, tạo ra môi trường chủ động, sáng tạo trước thực tiễn biến đổi nhanh của kinh tế và hội nhập quốc tế.

Cần nắm vững những quan điểm có tính chỉ đạo việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vừa sử dụng các quy luật của kinh tế thị trường để giải phóng sức sản xuất, định hình từng bước cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, vừa kiên định, giữ vững bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội giữ vị trí chủ đạo và lớn dần lên trong mỗi bước phát triển của đất nước. Bảo đảm các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế đều bình đẳng trên thị trường và trước pháp luật để khơi dậy mọi nguồn lực của xã hội cho phát triển kinh tế và chính trị.

Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị một cách đồng bộ, triệt để, có kế thừa, có bước đi, với hình thức và cách làm thích hợp, đáp ứng yêu cầu chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Bảo đảm sự nhịp nhàng, đúng trình tự trong quá trình đổi mới kinh tế và chính trị - thể hiện ở phạm vi, mức độ và nhịp độ của đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị. Đổi mới nhịp nhàng giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh.

Giải quyết đúng đắn và hài hòa các quan hệ đổi mới - ổn định - phát triển cả trong kinh tế và chính trị. Đổi mới kinh tế và chính trị là làm cho chính trị và kinh tế phù hợp với nhau, làm cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế cũng là thực hiện mục tiêu chính trị, làm cho chính trị đủ trình độ và khả năng định hướng và điều chỉnh kinh tế theo mục đích của mình. Ổn định chính trị - xã hội là giữ thế cân bằng (tương đối) giữa các bộ phận của kinh tế, chính trị, xã hội, tạo nên sự gắn kết, thống nhất, vững mạnh trong tính chỉnh thể. Đổi mới - ổn định - phát triển kinh tế và chính trị liên quan chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề cho nhau tồn tại, tạo điều kiện cho nhau phát triển.

Cần làm rõ những yêu cầu về sự thay đổi tương thích cần có giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; làm rõ những yêu cầu và tính cấp thiết của việc đổi mới chính trị đáp ứng những yêu cầu của đổi mới kinh tế; làm rõ các giai đoạn và bước đi của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; phát huy những yếu tố tích cực, thúc đẩy và hạn chế những yếu tố tiêu cực, cản trở trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chính là nhằm mang lại chất lượng và hiệu quả cho cả đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.

4- Về giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong những năm tới: Trước hết, cần nâng cao nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Tiếp tục nghiên cứu xu hướng vận động, phát triển của thời đại ngày nay và đặc điểm mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế ở Việt Nam dựa trên những nhận thức mới về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, phát hiện và dự báo để có những chủ trương, biện pháp giải quyết đúng đắn, kịp thời mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đẩy mạnh nghiên cứu và tham khảo lý thuyết cũng như kinh nghiệm thực tiễn của các nước phát triển và các “quốc gia khởi nghiệp” thành công theo con đường “phát triển rút ngắn”. Có chương trình tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và trong nhân dân về những thành tựu và hạn chế của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, thời cơ và thách thức của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong giai đoạn mới; phát hiện các nhân tố mới, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.

Tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế chính trị dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thể chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ”. Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và văn hóa theo yêu cầu đổi mới ở đầu thế kỷ XXI, đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.

Nhận diện và phát huy kịp thời những yếu tố dẫn dắt, thúc đẩy, tạo nhu cầu, điều kiện,... của đổi mới kinh tế đối với đổi mới chính trị, như sự hình thành và phát triển của thể chế kinh tế thị trường; quá trình cơ cấu lại và chuyển đổi mô hình tăng trưởng; yêu cầu ổn định kinh tế vĩ mô; đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ nhằm bảo đảm phát triển lành mạnh nền kinh tế; tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường; tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách đất đai; đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; thực hiện bình đẳng thật sự giữa các thành phần kinh tế...

Nhận diện và hạn chế kịp thời những yếu tố cản trở của đổi mới kinh tế đối với đổi mới chính trị, như sự hạn chế về năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong phát triển kinh tế thị trường; tình trạng phân hóa giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội; chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu còn thấp; tài nguyên kinh tế còn bị lãng phí; lao động nông nghiệp vẫn chiếm phần lớn trong cơ cấu nền kinh tế; doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa hiệu quả; một số loại thị trường còn sơ khai, chưa phát triển; hệ thống thể chế pháp luật và hành chính cần thiết cho nền kinh tế thị trường chưa hoàn thiện hoặc hiệu lực thấp; bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế còn lớn; tham nhũng, lãng phí còn chưa được ngăn chặn và khắc phục; nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế vẫn chưa công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường...

Đồng thời, phát huy những kết quả của đổi mới chính trị thúc đẩy đổi mới kinh tế, như hoàn thiện các quy chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; khắc phục tình trạng vừa bao biện, vừa buông lỏng sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước đối với kinh tế; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước đối với phát triển kinh tế; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế; xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện thể chế thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; phát huy dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương.

Phát hiện và khắc phục những nội dung đổi mới chính trị còn cản trở đổi mới kinh tế, như nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa hoàn thiện; sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước; chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân chưa được thực hiện đầy đủ; công tác tổ chức, cán bộ, hoạt động chính sách chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế...

Đổi mới kinh tế cần gắn hơn nữa với dân chủ hóa; cải cách thể chế cần gắn với cải cách luật pháp. Kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị là quan trọng, tập trung cải cách những khâu, những phương diện chính trị còn trói buộc và cản trở đối với phát triển kinh tế. Xác định những khâu đột phá trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phát triển lý luận về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phù hợp với từng giai đoạn. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải được tiến hành một cách đồng bộ, có hệ thống và có trọng tâm, trọng điểm. Bảo đảm ổn định chính trị, chủ động đổi mới chính trị đáp ứng yêu cầu của cải cách kinh tế.

Cần thấy chính trị phải thể hiện yêu cầu của quy luật kinh tế để khi vận dụng, trong mỗi bước phát triển kinh tế thì chính trị phải mở đường bằng đổi mới đường lối, chính sách kinh tế, đổi mới tổ chức và cán bộ. Đường lối, chính sách, tổ chức và cán bộ phù hợp với các bước phát triển kinh tế có tính quy luật thì chính trị sẽ phát huy vai trò lãnh đạo cho kinh tế phát triển. Trong điều kiện đó, “chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”, như V.I. Lê-nin từng nhấn mạnh. Địa vị hàng đầu của chính trị thể hiện ở chất lượng của đường lối, chính sách; ở chất lượng tổ chức và đào tạo, bố trí cán bộ, nhất là người đứng đầu; ở hiệu quả kinh tế, xã hội; ở mức độ cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Trong giai đoạn kinh tế thị trường không ngừng được hiện đại hóa với trình độ ngày càng cao như hiện nay, “địa vị hàng đầu” của chính trị còn thể hiện ở thái độ chính trị đối với trí thức về phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và hợp tác có hiệu quả giữa khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo với phát triển kinh tế. Sự phát triển đồng bộ các lĩnh vực này làm tăng sức cạnh tranh của đất nước là tiêu chí đo lường chất lượng chính trị hàng đầu so với kinh tế.

Cần nhận rõ đặc điểm mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam nhìn từ thực tiễn hiện nay. Chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là một bước tiến quan trọng, có ý nghĩa quyết định về sự hình thành mối quan hệ kinh tế mới, hoàn toàn khác với trước đây cả về bản chất lẫn vai trò quyết định của nó đối với chính trị một cách khách quan, đồng thời chính trị cũng thể hiện tính chủ động, sáng tạo trong phát triển kinh tế hơn bao giờ hết.

Cần thấy nền kinh tế thị trường của nước ta đến nay vẫn chưa đầy đủ, hiện đại (đang xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật công nghiệp), nhưng lại chịu áp lực của nền kinh tế thị trường thế giới ở trình độ phát triển rất cao. Bản chất kinh tế này phải thể hiện trong cơ cấu kinh tế, trong tốc độ vận động, chất lượng, hiệu quả, tổ chức và quản lý kinh tế. Do vậy, cần thấy vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị và tính chủ động, sáng tạo của chính trị trong thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển, trong điều chỉnh các lợi ích. Tính chủ động, sáng tạo của chính trị còn thể hiện ở việc coi trọng bộ phận tiên tiến trong nhân dân, xã hội. Hơn nữa, tính chủ động, sáng tạo của chính trị được đánh giá từ trình độ, chất lượng xây dựng và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí, phát triển đầy đủ hơn con người Việt Nam, như là cơ sở bền vững của sự phát triển kinh tế và chính trị.

Cần lấy sự sáng tạo của đường lối, chính sách làm động lực chính cho sự phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị. Công cuộc đổi mới chỉ thành công nhờ tầm nhìn và quyết tâm của những nhà chính trị đứng đầu đất nước, cùng với những nhà quản lý đứng đầu các công ty khởi nghiệp. Tầm vóc chính trị thể hiện cụ thể trong sáng tạo, trong thu hút nhân tài, cũng như trong kinh tế và chính trị. Quyền lực chính trị cần dựa trên những giá trị văn hóa có sức lan tỏa và thấm sâu trong lòng dân tộc, trong mỗi cán bộ, đảng viên và người dân.

Cần thấy công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay đang ở bước ngoặt khi nhìn từ tình hình kinh tế và chính trị trong nước. Bước ngoặt này có chiều sâu và rộng khi nhìn từ tình hình kinh tế và chính trị thế giới mà nước ta đang hội nhập. Vì vậy, đổi mới kinh tế và chính trị lần này nằm trong một mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau như một hệ thống đang vận động để cùng vượt lên tầm cao mới. Động lực đổi mới ở giai đoạn hiện nay và sắp tới không chỉ nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, mà còn đổi mới cả các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội và quan hệ quốc tế để hướng tới mục tiêu phát triển theo xu thế của thời đại từ đầu thế kỷ XXI là phát triển bền vững, xây dựng mối quan hệ hài hòa, phát triển đồng thuận giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người và môi trường tự nhiên. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cần được đặt ở tầm cao mới, chất lượng mới trong các chiến lược và giải pháp của Đảng và Nhà nước; trong nhận thức, quyết tâm chính trị và hành động cách mạng thiết thực của toàn Đảng, toàn dân./.