Việt Nam - Hoa Kỳ: tăng cường hợp tác toàn diện vì lợi ích của nhân dân hai nước
TCCSĐT - Nhận lời mời của Chính phủ Hoa Kỳ, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, cùng Phu nhân và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam thăm hữu nghị chính thức Hoa Kỳ, từ ngày 06 đến 10-7-2015. Đây là chuyến thăm đầu tiên của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tới Hoa Kỳ.
Kể từ khi Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam (ngày 11-7-1995), và Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Võ Văn Kiệt tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ (ngày 12-7-1995), quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ có những bước phát triển nhanh chóng, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả hai bên.
Một số kết quả nổi bật của 20 năm quan hệ hợp tác
Thứ nhất, nâng tầm quan hệ đối tác. Trong những năm qua, hợp tác chính trị là vấn đề hết sức quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Hai bên đã thiết lập các kênh đối thoại mang tính xây dựng và thẳng thắn giữa các cấp, các ngành, các tổ chức nhân dân, tổ chức xã hội,... Hai bên cũng trao đổi nhiều đoàn cấp cao của chính quyền, quốc hội về tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế; phối hợp với nhau trong nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương mà cả hai nước là thành viên, như Liên hợp quốc, Diễn đàn hợp tác kinh tế - châu Á Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF),... đồng thời luôn nỗ lực đẩy mạnh hợp tác liên quan đến các vấn đề ứng phó biến đổi khí hậu, môi trường khu vực hạ nguồn sông Mê Công, hợp tác không gian vũ trụ,… trong phối hợp với các nước trong và ngoài khu vực Đông Nam Á, hỗ trợ nhân đạo, xử lý các hậu quả của chiến tranh.
Năm 2000, năm năm sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ, Tổng thống Hoa Kỳ B. Clinton trở thành tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thăm Việt Nam với “hy vọng chuyến đi sẽ mở sang chương mới trong quan hệ hai nước, đặt dấu kết thúc cho những bất đồng”.
Năm 2013, nhân chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, cam kết hợp tác nhiều mặt để góp phần làm sâu rộng quan hệ vì lợi ích lâu dài của hai nước, lãnh đạo hai nước nhất trí nâng quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên tầm “Đối tác toàn diện”. Đây được coi là cột mốc quan trọng đánh dấu giai đoạn phát triển mới toàn diện và sâu sắc hơn trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
Từ năm 2014 đến nay, hai nước tiếp tục tăng cường các cuộc gặp và chuyến thăm giữa các lãnh đạo cấp cao. Bên lề Diễn đàn APEC tại Trung Quốc (tháng 11-2014) và Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS, tháng 11-2014) tại Myanmar, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc gặp với Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị (tháng 7-2014), Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh (tháng 9-2014), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh (tháng 10-2014), Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang (tháng 3-2015) thăm và làm việc tại Hoa Kỳ. Về phía Hoa Kỳ, đã có 13 chuyến thăm Việt Nam của lãnh đạo Quốc hội Hoa Kỳ, như Chủ tịch Thường trực Thượng viện Patrick Leahy (tháng 4-2014) và các Thượng Nghị sĩ John McCain, Bob Corker (tháng 8-2014),… Ngoài ra, hai bên còn có nhiều hoạt động trao đổi các đoàn cấp bộ, ngành, địa phương, triển khai 11 cơ chế đối thoại trên các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, dân chủ, nhân quyền, lao động.
Tới đây, quan hệ song phương càng được củng cố, thắt chặt và làm sâu sắc thêm bởi chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (từ ngày 06 đến 10-7-2015), đúng vào dịp hai nước kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao, nhằm khẳng định sự coi trọng và mong muốn không ngừng phát triển quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ. Chuyến thăm được thực hiện hai năm sau khi hai nước thiết lập quan hệ “đối tác toàn diện” cho thấy ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng phát triển quan hệ song phương trong thời gian tới, thúc đẩy các mặt hợp tác song phương, làm sâu sắc thêm quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Thứ hai, có sự phát triển vượt bậc trong hợp tác kinh tế. Kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ đến nay, hợp tác kinh tế được đánh giá là lĩnh vực có sự phát triển vượt bậc và đáng kể nhất trong quan hệ song phương Việt Nam - Hoa Kỳ.
Về thương mại, mở đầu cho tiến trình hợp tác này là việc Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam gia nhập Diễn đàn APEC (năm 1997) và Tổng thống Hoa Kỳ B. Clinton tuyên bố miễn áp dụng Đạo luật bổ sung Jackson-Vanick đối với Việt Nam (năm 1998). Đặc biệt, với việc ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (tháng 7-2000, có hiệu lực vào tháng 12-2001), quan hệ kinh tế hai nước bước sang giai đoạn mới với nhiều khởi sắc. Năm 2014, Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn thứ 26 của Hoa Kỳ với tổng kim ngạch thương mại hai chiều đạt khoảng 35 - 36 tỷ USD, tăng 70 lần so với trước khi hai nước bình thường hóa quan hệ (năm 1995), trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ hơn 28 tỷ USD. Dự kiến năm 2015, con số này sẽ tiếp tục tăng, đạt 40 tỷ USD.
Về đầu tư, tính đến ngày 20-3-2015, Hoa Kỳ đứng thứ bảy trong số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với 735 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực, có tổng số vốn đăng ký đạt khoảng 11,06 tỷ USD. Tính riêng trong 3 tháng đầu năm 2015, Hoa Kỳ xếp thứ 7/33 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với 8 dự án FDI được cấp giấy chứng nhận đầu tư mới và 2 dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm, đạt gần 70 triệu USD. Đến nay, dự án Công ty TNHH Winvest Investment (Việt Nam) được cấp phép vào năm 2006 là dự án FDI lớn nhất của Hoa Kỳ tại Việt Nam, với quy mô 4,1 tỷ USD. Mục tiêu hoạt động của dự án này là xây dựng khu nghỉ mát, khách sạn 5 sao, vui chơi giải trí tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Dịch vụ lưu trú và ăn uống, công nghiệp chế biến chế tạo, kinh doanh bất động sản, logistics là những lĩnh vực chủ yếu Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam. Các dự án đầu tư Hoa Kỳ có mặt tại 40/63 địa phương của cả nước (tính cả khu vực dầu khí ngoài khơi).
Dự kiến trong thời gian tới, khi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) - khu vực thương mại tự do lớn bao gồm 12 đối tác hai bờ Thái Bình Dương, được ký kết sẽ có một làn sóng đầu tư lớn từ các tập đoàn doanh nghiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Theo Hội đồng Kinh doanh Mỹ - ASEAN, trong năm 2014, đã có 33 doanh nghiệp Hoa Kỳ sang tìm hiểu và quan tâm đến môi trường kinh doanh tại Việt Nam, so với 22 doanh nghiệp của năm 2013.
Về viện trợ phát triển chính thức (ODA), bên cạnh các dự án FDI, Hoa Kỳ còn là một trong những nước viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Quy mô và phạm vi hỗ trợ ODA của Hoa Kỳ tại Việt Nam được mở rộng sau khi Văn phòng Phát triển Quốc tế (USAID) được thành lập tại Việt Nam (tháng 11-2000) và được nâng lên thành Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ tại Việt Nam (năm 2005). Đặc biệt, việc hai nước ký Hiệp định hợp tác kinh tế và kỹ thuật nhân chuyến thăm Hoa Kỳ của Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 6-2005) đã tạo khung pháp lý để thực hiện các dự án ODA của Hoa Kỳ tại Việt Nam, tạo tiền đề tăng nguồn vốn này cho Việt Nam trong những năm tiếp theo. Năm 2009 - 2010, tổng viện trợ ODA của Hoa Kỳ cho Việt Nam thông qua USAID là 141 triệu USD, năm 2010 - 2011 là 184 triệu USD và năm 2011 - 2012: 151 triệu USD. Viện trợ của Hoa Kỳ vào Việt Nam được phân ra thành nhiều lĩnh vực, trong đó tập chung chủ yếu vào phát triển kinh tế và thương mại, môi trường, an ninh, quản trị; thông qua hình thức dự án song phương hoặc dự án của các tổ chức phi chính phủ Hoa Kỳ.
Thứ ba, đạt những bước tiến dài trong hợp tác an ninh - quốc phòng. Quan hệ hợp tác quốc phòng “đi sau, chậm hơn, thận trọng nhưng vững chắc”. Cho đến nay, theo Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh, “hai bên đã đạt được sự thống nhất không còn muốn là kẻ thù của nhau, không xâm phạm, xâm hại những lợi ích chiến lược của nhau và đặc biệt là cam kết không bao giờ đem chiến tranh đến cho nhau”(1).
Sau chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Williams Cohen, lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ hai nước, Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà đã dẫn đầu đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam thăm Hoa Kỳ (tháng 11-2003). Chuyến thăm này đã để lại dấu ấn nền tảng trong quan hệ quốc phòng hai bên. Kể từ đó, hằng năm tàu quân sự của Hoa Kỳ đều thực hiện các chuyến thăm cảng Việt Nam. Bộ Quốc phòng Việt Nam và Hoa Kỳ thường niên tổ chức những chuyến thăm viếng lẫn nhau. Riêng năm 2014, đã có hai chuyến thăm cấp cao của quan chức quốc phòng hai nước, đó là chuyến thăm Hawaii của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ - ASEAN (tháng 3-2014); chuyến thăm Việt Nam của Đại tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ. Gần đây nhất, hai bên đã ký “Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ”, với nhiều nội dung hợp tác sâu rộng, nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter (ngày 31-5-2015).
Việc Quốc hội và Chính phủ Hoa Kỳ dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam (tháng 11-2014) thể hiện những động thái tích cực. Hoa Kỳ hỗ trợ 18 triệu USD cho Việt Nam nâng cao năng lực hàng hải trong lĩnh vực hợp tác cảnh sát biển, chia sẻ những kinh nghiệm để thực thi pháp luật trên biển, hỗ trợ một số trang bị như xuồng cao tốc, các khóa đào tạo về luật pháp quốc tế, về luật biển.
Thứ tư, ưu tiên hợp tác giáo dục - đào tạo. Đây được coi là một điểm sáng trong quan hệ hai nước và là một trong những lĩnh vực ưu tiên mà Hoa Kỳ dành cho Việt Nam. Năm 2003, hai bên đã ký kết nguyên tắc hợp tác trong việc thực hiện Đề án Quỹ giáo dục của Hoa Kỳ dành cho Việt Nam (VEF). Hiện nay, Việt Nam đứng thứ tám trong số các nước có lưu học sinh đang du học tại Hoa Kỳ, với tổng số hơn 16.000 sinh viên. Nhiều trường đại học của Hoa Kỳ đã có những mối quan hệ hợp tác với các trường đại học của Việt Nam, qua đó nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và nghiên cứu, mang lại hiệu quả cao hơn cho công tác giáo dục - đào tạo của hai nước.
Thứ năm, có những bước tiến tích cực trong hợp tác về khoa học - kỹ thuật, y tế, du lịch,…Việc hai nước ký Hiệp định hợp tác sử dụng hòa bình năng lượng hạt nhân (Hiệp định 123) vào ngày 06-5-2014 (chính thức có hiệu lực từ ngày 10-9-2014), đã tạo cơ sở để Việt Nam có thể tiếp nhận công nghệ hạt nhân tiên tiến, hiện đại, trực tiếp hoặc có nguồn gốc từ Hoa Kỳ cho các dự án điện hạt nhân.
Trong lĩnh vực y tế, nhiều dự án và chương trình đã được hai nước nỗ lực xây dựng và thực hiện có hiệu quả, như chương trình Phòng chống dịch bệnh SARS, HIV/AIDS; dự án Giáo dục vệ sinh và dinh dưỡng học đường,…
Về hợp tác du lịch, trong năm 2014, số lượng khách du lịch Hoa Kỳ đến Việt Nam tiếp tục tăng, đạt khoảng 443.000 lượt khách, đứng thứ tư trong số các nước có nhiều khách du lịch vào Việt Nam.
Củng cố lòng tin, tăng cường hợp tác và phát triển
Có thể thấy, mặc dù giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn có những nét khác biệt trong quan niệm về một số vấn đề, như dân chủ, nhân quyền, song những kết quả hợp tác đạt được trên nhiều lĩnh vực sau 20 năm bình thường hóa quan hệ tạo cơ sở cho những triển vọng về một chương mới trong quan hệ “đối tác toàn diện” Việt Nam - Hoa Kỳ thời gian tới.
Một là, về chính trị - ngoại giao. Với việc Hoa Kỳ thực thi chính sách “xoay trục” sang châu Á - Thái Bình Dương, còn Việt Nam đang tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, hai nước có điều kiện để thúc đẩy quan hệ song phương phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ là cường quốc kinh tế số 1 thế giới, là thành viên Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), có trình độ công nghệ cao, nền giáo dục tiên tiến… Trong khi, sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, thế và lực của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới cũng được nâng lên rõ rệt. Hai bên cùng quan tâm đến việc tăng cường trao đổi, tham vấn, phối hợp chính sách,… nhằm giải quyết các thách thức toàn cầu, thúc đẩy các lĩnh vực cùng quan tâm và phát huy hiệu quả của các cơ chế, diễn đàn hợp tác khu vực và quốc tế, như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), APEC, ARF, EAS, ADMM+.
Hai là, về hợp tác kinh tế, đầu tư. Việt Nam và Hoa Kỳ đều đánh giá cao những tiềm năng kinh tế của nhau. Hiện nay và trong tương lai, Hoa Kỳ vẫn sẽ là đối tác thương mại và nhà đầu tư lớn của Việt Nam, và Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng đối với các doanh nghiệp Hoa Kỳ với quy mô dân số 90 triệu dân như hiện nay và 100 triệu dân trong thập niên tới.
Ba là, tăng cường hợp tác giáo dục - đào tạo. Đây là lĩnh vực được hai bên rất quan tâm. Việt Nam hiện có nhu cầu rất lớn về giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong khi đó, Hoa Kỳ là một quốc gia có thế mạnh về lĩnh vực này và cũng có nhu cầu đón nhận sinh viên nước ngoài học trong các trường đại học. Vì thế, hợp tác tốt trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hợp tác giữa các trường đại học và những liên kết giáo dục còn thúc đẩy sự hiểu biết hơn nữa của nhân dân hai nước về nền văn hóa dân tộc của mỗi nước; từ đó mở ra nhiều hơn nữa cơ hội kinh doanh và giao lưu văn hóa giữa hai nước.
Bốn là, thúc đẩy hợp tác an ninh - quốc phòng. Về cơ bản, trong lĩnh vực này, Việt Nam - Hoa Kỳ đã đạt được tiến bộ trong cả 5 lĩnh vực, gồm: an ninh hàng hải, đối thoại cấp cao, tìm kiếm cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, và, các hoạt động gìn giữ hòa bình, đã được hai bên ký kết trong “Bản Ghi nhớ hợp tác an ninh - quốc phòng” vào tháng 9-2011.
Năm là, đẩy mạnh hợp tác giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại. Việt Nam đã và đang làm hết sức mình giúp Chính phủ Hoa Kỳ kiểm kê các trường hợp binh sĩ Hoa Kỳ bị mất tích trong chiến tranh. Về phần mình, Hoa Kỳ cũng có một số biện pháp đáp ứng những nhu cầu nhân đạo của Việt Nam trong việc khắc phục hậu quả chiến tranh, như xử lý bom mìn, tẩy độc, xúc tiến việc hợp tác nghiên cứu tác hại của chất độc da cam đối với con người và môi trường, hậu quả do thiên tai, dịch bệnh.
Tóm lại, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ từ sau khi hai nước bình thường hóa và nối lại quan hệ ngoại giao đã có những bước phát triển mạnh mẽ và sâu rộng. Độ tin cậy chính trị giữa hai quốc gia có những bước cải thiện đáng kể, tạo điều kiện cho quan hệ song phương phát triển sang một giai đoạn mới sâu sắc hơn, tin cậy hơn và toàn diện hơn vì lợi ích của nhân dân hai nước, đóng góp và vun đắp cho một châu Á - Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, năng động và thịnh vượng./.
Nguyên tắc trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ (cũng như đối với tất cả các nước khác) là tôn trọng độc lập, tự chủ, chủ quyền lãnh thổ, tôn trọng chế độ chính trị, lợi ích của nhau, bình đẳng cùng có lợi, và mối quan hệ ấy không gây phương hại, không gây quan ngại cho bất kỳ một quốc gia nào. Hợp tác thực chất; không xâm hại lợi ích chiến lược, không bao giờ đem chiến tranh đến cho nhau là những cam kết cơ bản trong Hợp tác an ninh và quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ.
-------------------------------------------
(1) http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/tuong-nguyen-chi-vinh-viet-my-cam-ket-khong-xam-hai-loi-ich-chien-luoc-3241672.html
Tuyên truyền chống xuyên tạc chia rẽ nhân dân Việt Nam - Campuchia  (06/07/2015)
Khai mạc kỳ họp thứ 13 Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội khóa XIV  (06/07/2015)
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp xúc cử tri thành phố Hải Phòng  (06/07/2015)
Điện mừng Quốc khánh nước Cộng hòa Bolivar Venezuela  (06/07/2015)
Người dân góp 27.000 tỷ đồng xây dựng giao thông nông thôn  (06/07/2015)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên