Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945: cơ sở đầu tiên của Hiến pháp năm 1946 nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
TCCSĐT - Giá trị của Tuyên ngôn Độc lập chính là ở chỗ mở ra một kỷ nguyên độc lập dân tộc và dân chủ cộng hòa, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và do đó đã mở ra một kỷ nguyên Hiến pháp cho Việt Nam, định hướng những tư tưởng chiến lược cho việc xác lập mọi bản Hiến pháp của nước ta trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Mối quan hệ mật thiết giữa Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định hiện trạng xã hội nước ta ở giai đoạn lịch sử trước và ngay sau năm 1945 là: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ” (1).
Trước yêu cầu của lịch sử dân tộc, ngay sau khi giành được chính quyền và sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập vào ngày 2-9-1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 34, ngày 20-9-1945, lập Ủy ban Dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, gồm 7 người: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng và Đặng Xuân Khu; Hồ Chí Minh làm Trưởng ban.
Trong nhiều phiên họp của Ủy ban Dự thảo Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên và đề nghị đưa quan điểm “lấy dân làm gốc” vào bản Hiến pháp với những điều luật ngang tầm với nền chính trị và pháp luật tiên tiến của thế giới lúc bấy giờ và có những điều còn có giá trị vượt thời gian cho đến hôm nay. Song để có được những giá trị chính trị và pháp lý căn bản đó, cần phải thấy rõ những tư tưởng vĩ đại trong Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo đã được quán triệt sâu sắc vào trong bản Hiến pháp năm 1946. Nhất là tư tưởng: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập”. Tư tưởng này đã tạo cơ sở cho việc ra đời bản Hiến pháp năm 1946; “Hiến pháp năm 1946 gắn bó hữu cơ với Tuyên ngôn độc lập” (2); và Tuyên ngôn Độc lập là cơ sở của Hiến pháp, như Bộ trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên của nước Việt Nam đã từng nhận định.
Ba cơ sở của Hiến pháp trong Tuyên ngôn Độc lập
Một là, Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền độc lập dân tộc.
Đây là cơ sở đầu tiên của Hiến pháp. Để khẳng định quyền độc lập của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ mọi người đều có quyền “không ai có thể chối cãi được” (3), đó là quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Từ đó, Người đã suy rộng ra là: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tiếp đó, Người khẳng định với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”.
Quyền độc lập dân tộc, quyền căn bản nhất của một quốc gia, sau này đã được Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 9-11-1946 xác lập và thành văn. Ngay từ những lời đầu tiên, những điều đầu tiên, Hiến pháp đã khẳng định: “Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa”. Tiếp đó là việc tự xác lập chính thể của riêng mình; đặc biệt là việc khẳng định: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”, có Quốc kỳ, Quốc ca và Thủ đô riêng. Cùng với đó, Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều là sự thể hiện toàn bộ tinh thần độc lập và tự quyết dân tộc, toàn bộ thể chế chính trị và luật pháp, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, quyền và nghĩa vụ công dân… tất thảy đều do nhân dân Việt Nam tự định ra và tổ chức thực hiện, mà không được có sự can thiệp hay sự áp đặt của nước ngoài… Tất cả nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 1946 đã thể hiện sự kế thừa và cụ thể hóa ý chí độc lập dân tộc và hiện thực độc lập dân tộc của nhân dân ta mà Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định và tuyên bố.
Thực tiễn đã cho thấy, khi Hiến pháp năm 1946 được công bố thì những điều căn bản nhất về chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân mà Tuyên ngôn định ra đã được thể hiện đầy đủ nhất trong Hiến pháp. Điều thứ 1 ghi nhận: “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Những quyền cơ bản của công dân đều được ghi rõ: Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá; đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình. Tiếp đó, những điều căn bản nhất khẳng định chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân đã được xác lập, như: Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra; Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia; Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra… Như vậy, một lần nữa cho thấy, ý chí chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân mà Tuyên ngôn độc lập khẳng định đã tạo cơ sở, tiền đề cho Hiến pháp thể hiện cụ thể hơn.
Ba là, Tuyên ngôn Độc lập vạch đường hướng thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa.
Bản Tuyên ngôn Độc lập đã đanh thép tuyên bố sự cáo chung đối với chế độ cũ: “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ”; đồng thời “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hẳn những Hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Còn đối với trật tự xã hội mới, bản Tuyên ngôn độc lập xác lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững tự do độc lập ấy”. Chính thể mà dân ta lập nên là “Chế độ Dân chủ Cộng hòa”.
Như vậy, sau mấy trăm năm dưới sự đè nén của chế độ quân chủ chuyên chế và gần 100 năm dưới sự cương tỏa, áp bức của chế độ thực dân (chế độ cộng hòa đại nghị tư sản Pháp), lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta đã có một tuyên ngôn chính thức tuyên bố với thế giới rằng Việt Nam đã trở thành một nhà nước dân chủ cộng hòa. Đây chính là cơ sở cho Hiến pháp sau này thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa cho Nhà nước Việt Nam. Và quả đúng như vậy, ngay từ Lời nói đầu của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, được Quốc hội thông qua ngày 9-11-1946 đã khẳng định: “Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan”.
Cùng với đó, Điều thứ 1 thuộc Chương I - Chính thể, đã ghi nhận “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền lực trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Hiến pháp ghi nhận một hình thức đại diện để thực hiện quyền lực nhân dân là thông qua Nghị viện nhân dân. Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; do công dân Việt Nam bầu ra; giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài…
Có thể thấy rằng, tất cả tinh thần và lời văn, tất cả những văn bản pháp lý, bằng chứng pháp lý đầu tiên của nước Việt Nam mới đã chứng minh: Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 chính là sự thể hiện sinh động ý chí và quyền tự quyết dân tộc, chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân và con đường đi lên của dân tộc Việt Nam mà Tuyên ngôn độc lập năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và tuyên bố. Tuyên ngôn độc lập 1945 chính là cơ sở cho Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
(2) Vũ Đình Hòe, Hiến pháp 1946 của Việt Nam - một mô hình mới - Hiến pháp dân tộc và dân chủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.6.
(3) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.1.
Diễn văn của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tại Lễ Kỷ niệm 65 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9  (01/09/2010)
"Việt Nam đề cao sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế"  (01/09/2010)
Tổng Thư ký Liên hợp quốc chúc mừng Quốc khánh 2-9  (01/09/2010)
Cơ hội để nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam  (01/09/2010)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên