Phát triển nguồn nhân lực ở Quảng Ninh hiện nay - Thực trạng và giải pháp
Tỉnh Quảng Ninh là một tỉnh nằm trong tam giác kinh tế tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã mang diện mạo của một khu vực kinh tế mở, năng động, đạt tốc độ tăng trưởng cao, quy mô không ngừng được nâng lên. Để đạt được những kết quả đó, ngoài lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên phong phú, trong những năm đổi mới, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã tập trung xây dựng, phát triển nguồn nhân lực và đã thu được nhiều kết quả.
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã chọn đúng và giải quyết phù hợp vấn đề phát triển nguồn nhân lực, coi đây là hướng đột phá để phát triển kinh tế - xã hội - một nhiệm vụ vừa cấp bách, thường xuyên vừa có tính chiến lược lâu dài. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lựccủa tỉnh Quảng Ninh, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực của địa phương trên cả phương diện chủ trương và tổ chức thực hiện còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực Quảng Ninh hiện nay với những thành tựu đạt được cũng như những khó khăn, yếu kém để đề xuất những giải pháp góp phần phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững là cần thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Thực trạng nguồn nhân lực Quảng Ninh hiện nay
Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015 - 2020 chủ trương: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với tăng nhanh quy mô và nâng cao chất lượng dân số là một trong 3 khâu đột phá chiến lược, coi đây là yếu tố quan trọng, là nền tảng vững chắc để tạo đà cho sự phát triển bền vững của tỉnh trong giai đoạn mới”(1). Nghị quyết nhấn mạnh: nguồn nhân lực dựa trên hai nguồn là nhân lực tại chỗ và nhân lực thu hút, do đó phải làm rõ vai trò, cấu trúc lại và có cơ chế chính sách đào tạo, thu hút nhân lực, phấn đấu là địa phương có nguồn nhân lực chất lượng cao, đẳng cấp quốc tế. Quán triệt chủ trương của Đảng bộ, với tầm nhìn chiến lược, tỉnh Quảng Ninh đã nỗ lực xây dựng quy hoạch nhằm phát triển nguồn nhân lực cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng. Theo đó, trong giai đoạn 2014 - 2019, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã ban hành 12 văn bản chỉ đạo, trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành 9 nghị quyết liên quan. Triển khai hiệu quả Đề án 239 về “Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng và phát triển toàn diện nguồn nhân lực tỉnh đến năm 2020”; các chính sách thu hút lao động và phát triển nguồn nhân lực phục vụ các khu công nghiệp, khu kinh tế trong tỉnh; đề án dạy nghề cho lao động nông thôn...
Đồng thời, phát huy vai trò của doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong 5 năm (2015 - 2020) tỉnh Quảng Ninh đã dành 259 tỷ đồng cho việc triển khai đề án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng và phát triển toàn diện nguồn nhân lực tỉnh đến năm 2020, mở 800 lớp đào tạo, bồi dưỡng trong nước và nước ngoài với 145 nghìn lượt người tham gia. Trong đó, số lượng cán bộ công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý được cử đi đào tạo, bồi dưỡng tại nước ngoài là hơn một nghìn lượt. Đội ngũ cán bộ của tỉnh Quảng Ninh qua đào tạo, bồi dưỡng đã khẳng định, phát huy được trình độ, năng lực của mình, cơ bản đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ mà tỉnh đề ra; góp phần đưa Quảng Ninh trở thành địa bàn phát triển năng động, thu hút sự quan tâm, đầu tư của các nhà đầu tư, doanh nghiệp có tiềm lực trong nước và nước ngoài; thúc đẩy kinh tế - xã hội.
Đội ngũ cán bộ đương chức và trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, cấp sở và cấp phòng của tỉnh cơ bản đã được chuẩn hóa về trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ theo yêu cầu tiêu chuẩn chức danh và vị trí việc làm. Đồng thời tỉnh Quảng Ninh đã tăng cường nguồn lực đầu tư cho giáo dục, duy trì ở mức khá cao. Theo đó, ngân sách chi cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo hằng năm chiếm khoảng 20% tổng chi ngân sách của tỉnh. Đặc biệt, tỉnh Quảng Ninh coi trọng vai trò gắn kết đào tạo, nghiên cứu khoa học với nhu cầu doanh nghiệp; liên kết, hợp tác với doanh nghiệp để nâng cao chất lượng đào tạo; hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao…
Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh có 42 cơ sở đào tạo nghề, tuyển sinh đào tạo nghề nghiệp hơn 34 nghìn người/năm. Quy mô nguồn nhân lực của tỉnh hiện có gần 800 nghìn người, tăng 8,2% so với năm 2015; đến hết năm 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 85%, tăng 20,55% so với năm 2015, thuộc nhóm dẫn đầu cả nước. Trong đó, lao động có bằng cấp, chứng chỉ 45,5%; cơ cấu lao động của tỉnh hiện chuyển dịch tích cực theo đúng định hướng tăng trưởng, trong đó khu vực nông nghiệp 23,8%; công nghiệp, xây dựng 31%; dịch vụ 45,2%.
Quá trình thực hiện chủ trương phát triển nguồn nhân lực, mang lại những kết quả nhất định, góp phần nâng cao nhận thức cho toàn xã hội, huy động được sức mạnh của hệ thống chính trị, các thành phần kinh tế trong tỉnh cho công tác này. Chất lượng dân số của tỉnh Quảng Ninh ngày càng được cải thiện cả về thể chất và tinh thần. Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động tiếp tục được nâng cao. Đa số cán bộ, công chức, viên chức được đào tạo cả về chuyên môn, lý luận, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế; có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, từng bước trưởng thành, tiến bộ về trình độ, nhận thức, năng lực thực tiễn, phương pháp, tác phong, lề lối làm việc. Nguồn nhân lực của tỉnh Quảng Ninh cơ bản duy trì được tốc độ phát triển hợp lý về số lượng, chú trọng về chất lượng và tạo việc làm… Những thành tựu đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng để Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh tiếp tục phát huy nhằm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực trong các giai đoạn tiếp theo, tạo động lực để tỉnh Quảng Ninh nhanh chóng trở thành một tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, trung tâm du lịch quốc tế, là một trong những đầu tàu kinh tế của miền Bắc và cả nước.
Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh Quảng Ninh còn bộc lộ nhiều hạn chế: năng suất lao động thấp, trình độ tay nghề lao động còn kém, lao động chưa qua đào tạo không có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn chiếm tỷ trọng cao nên không tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế - xã hội. Lực lượng lao động đã qua đào tạo mất cân đối về cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu giữa các bậc đào tạo, còn thiếu cả lao động ở các dịch vụ cao cấp, như tài chính, ngân hàng, du lịch và đội ngũ cán bộ hành chính, cán bộ quản lý. Trong các ngành kinh tế quốc dân, số có trình độ đại học trở lên được phân bố chủ yếu vào các lĩnh vực quản lý nhà nước và an ninh, quốc phòng (18,8%), giáo dục và đào tạo (16,9%), công nghiệp khai thác mỏ (16,9%), công nghiệp chế biến (7,5 %), y tế và hoạt động cứu trợ xã hội (6,7%). Nhiều ngành và lĩnh vực kinh tế quan trọng của tỉnh như như nông, lâm nghiệp 3,2%, thủy sản 0,4%, thương nghiệp 1,1%, du lịch, sản xuất vật liệu xây dựng,… tỷ lệ số có trình độ đại học trở lên còn rất thấp, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Thực tế này cho thấy tình trạng mất cân đối trong đào tạo và bố trí sử dụng nguồn nhân lực có trình độ đại học trở lên trên địa bàn của tỉnh.
Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ của tỉnh Quảng Ninh còn thụ động, trông chờ vào các nguồn cung cấp từ các trường đại học và di chuyển từ tỉnh ngoài vào. Nguồn đào tạo tại tỉnh chủ yếu là đại học hệ tại chức, chất lượng hạn chế. Vấn đề đào tạo sau đại học chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu sử dụng. Công tác đào tạo nghề theo phương châm xã hội hóa tuy có nhiều tiến bộ, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, mới chỉ tập trung đào tạo đại trà, ngắn hạn chưa đủ điều kiện đào tạo lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao. Cơ cấu ngành, nghề đào tạo lao động còn nhiều bất cập. Số lao động được giải quyết việc làm hằng năm liên tục tăng nhưng chưa bền vững.
Đánh giá về nguồn nhân lực trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ XV (năm 2021) của Đảng bộ tỉnh đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém, đó là: “Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thiếu nhân lực chất lượng cao: chuyên gia, nghệ nhân, công nhân lành nghề, công nhân kỹ thuật, còn có khoảng cách lớn về trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật giữa miền núi, nông thôn, hải đảo với thành thị. Năng suất lao động thấp so với một số tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ…”. Từ thực trạng đó, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh rất quan tâm xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuẩn bị lực lượng lao động có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, bảo đảm cho công cuộc xây dựng Quảng Ninh trở thành một tỉnh dịch vụ, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công trong tương lai. Điều đó đòi hỏi việc phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Quảng Ninh một mặt phải có tầm nhìn chiến lược tổng thể, lâu dài; mặt khác, cần có những định hướng, mục tiêu, biện pháp cụ thể, phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước trong giai đoạn hiện nay.
Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực Quảng Ninh hiện nay
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đề ra mục tiêu xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện của phía Bắc. Nghị quyết tiếp tục xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với tăng nhanh quy mô và nâng cao chất lượng dân số là một trong 3 khâu đột phá chiến lược, coi đây là yếu tố quan trọng, là nền tảng vững chắc để tạo đà cho sự phát triển bền vững của tỉnh trong giai đoạn mới.
Quán triệt chủ trương của Đảng bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh chỉ đạo việc xây dựng Đề án phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, Đề án nêu nhiều giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững của tỉnh. Cụ thể là:
Thứ nhất, đổi mới và nâng cao nhận thức về vai trò nguồn nhân lực đối với phát triển bền vững: Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và đẩy mạnh tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và toàn xã hội thấy rõ vai trò và trách nhiệm trong đào tạo, sử dụng, phát triển nguồn nhân lực là của toàn xã hội (cấp ủy, chính quyền, nhà trường, doanh nghiệp và của gia đình cũng như bản thân mỗi người lao động). Huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để tạo sự chuyển biến mạnh về nguồn nhân lực ở các cấp, các ngành, các địa phương từ tỉnh đến cơ sở và người dân. Làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền sâu rộng để từng bước nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; hiểu rõ về quan điểm, chính sách phát triển nguồn nhân lực của Đảng, Nhà nước và tỉnh. Vận động các doanh nghiệp tích cực tham gia đào tạo nguồn nhân lực.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về nguồn nhân lực: Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tham mưu, giúp việc; phân định rõ thầm quyền, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong công tác quản lý, theo dõi, dự báo, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng cơ chế chính sách đào tạo theo nhu cầu xã hội, gắn kết các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp, mở rộng các hình thức đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp và xây dựng cơ chế để doanh nghiệp có trách nhiệm tham gia vào đào tạo nguồn nhân lực. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tích cực học tập nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; thực hiện tốt các mục tiêu xây dựng xã hội học tập.
Thứ ba, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo theo hướng hiện đại: Đổi mới công tác giáo dục và dạy nghề theo hướng toàn diện cả về trình độ, phẩm chất, đạo đức, văn hóa, kỹ năng nhằm hoàn thiện hệ thống giá trị của con người như trách nhiệm công dân, tinh thần học tập, trau dồi tri thức; có tác phong làm việc công nghiệp, khoa học, ý thức và năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội; sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng. Phát triển nhanh, bền vững nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ các ngành, nghề ưu tiên: du lịch, công nghiệp giải trí, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, thương mại quốc tế, công nghệ cao, công nghiệp chế biến, nuôi trồng thủy sản. Đổi mới tổ chức và phương pháp quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng, đồng thời mở rộng quy mô đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển, gắn đào tạo nhân lực với nhu cầu sử dụng của xã hội; đổi mới đồng bộ các khâu tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ; gắn đào tạo với thu hút nhân tài và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, đào tạo, việc làm và dạy nghề, chương trình kiên cố hóa trường lớp học, đa dạng hóa phương thức phát triển cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở các cấp học; cân đối hợp lý tỷ lệ về trình độ lao động qua đào tạo (tỷ lệ giữa đại học - trung cấp - công nhân), ngành, nghề, số lượng đào tạo cho từng lĩnh vực, từng địa phương trong tỉnh. Ưu tiên đầu tư trọng tâm cho trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và trường dạy nghề để nâng cao chất lượng đào tạo nghề, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo, nghiên cứu, thực hành. Chú trọng đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên bảo đảm chất lượng; quan tâm đến đào tạo các ngành khoa học kỹ thuật, ngoại ngữ, luật pháp quốc tế. Quan tâm đầu tư nâng cấp, phát triển cơ sở vật chất và phát huy hiệu quả của ngành y tế, văn hóa, thể dục thể thao. Thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, duy trì chuẩn y tế cơ sở, áp dụng khoa học kỹ thuật vào khám, chữa bệnh bảo đảm chất lượng từ tuyến tỉnh đến tuyến huyện; xã hội hóa đầu tư về cơ sở vật chất cho y tế, nhất là bệnh viện chất lượng cao. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, khống chế có hiệu quả các dịch bệnh, tăng cường quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục sức khỏe; quản lý, chăm sóc sức khỏe, phòng, chống bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
Thứ tư, đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút nguồn nhân lực, đẩy mạnh liên kết vùng trong phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng chính sách ưu đãi phải phù hợp với cơ cấu kinh tế, tập trung định hướng phát triển ngành, nghề ưu tiên của tỉnh, như khoa học quản lý, du lịch, thương mại dịch vụ, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, tài chính - ngân hàng, công nghệ thông tin, truyền thông quốc tế, một số ngành công nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp sinh thái, khai thác nuôi trồng chế biến nông, thủy sản cao cấp,… phục vụ nhu cầu phát triển dịch vụ du lịch. Xây dựng thị trường lao động với các cơ chế cạnh tranh, bình đẳng. Xây dựng cơ chế thu hút và trọng dụng nhân tài (cơ chế phát huy tối đa năng lực, sở trường cá nhân; tạo môi trường, cơ chế và không gian mở để từng cá nhân trong xã hội sáng tạo; xây dựng cơ chế để huy động trí tuệ tập thể thông qua hội thảo chuyên đề, nghiên cứu khoa học, tổ chức các cuộc thi ý tưởng sáng tạo…; biểu dương khen thưởng kịp thời, xứng đáng đối với chuyên gia giỏi, nhà khoa học, người được trao tặng danh hiệu vinh dự nhà nước). Nghiên cứu thí điểm thành lập Quỹ hỗ trợ dạy nghề, Quỹ nghiên cứu và phát triển gắn với xây dựng cơ chế huy động, cơ chế thưởng đối với các phát minh, sáng chế kỹ thuật được ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. Xây dựng cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ dạy nghề đối với các cơ sở dạy nghề trong tỉnh, trong nước và nước ngoài.
Xây dựng cơ chế lựa chọn và gửi các sinh viên xuất sắc để đào tạo sau đại học theo các chương trình thích hợp tại các trường đại học, cơ quan nghiên cứu hàng đầu trong và ngoài nước. Hỗ trợ một phần kinh phí đối với các doanh nghiệp tham gia đào tạo; cử lao động học tập nâng cao trình độ đào tạo tại nước ngoài về công tác tại tỉnh. Xây dựng cơ chế thu hút các trường đại học quốc tế có uy tín trên thế giới mở phân hiệu đào tạo đại học, cao đẳng, dạy nghề và phổ thông tại tỉnh. Có cơ chế thu hút sinh viên xuất sắc, đội ngũ trí thức trẻ về công tác tại tỉnh, nhất là tại cơ sở, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Xây dựng chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh liên kết giữa cơ sở đào tạo và đơn vị sử dụng lao động; đẩy mạnh liên kết vùng, hợp tác trong nước và quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực. Tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế để đẩy nhanh đào tạo nguồn nhân lực, trước hết là cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt chú ý việc đưa đội ngũ giáo viên dạy ngoại ngữ đi nước ngoài để nâng cao trình độ (bằng nguồn ngân sách nhà nước, khuyến khích du học tự túc và tranh thủ các nguồn viện trợ quốc tế) gắn với việc định hướng ngành, nghề (tập trung vào những ngành, nghề tỉnh cần hoặc trong nước chưa đào tạo được hoặc có đào tạo nhưng chất lượng còn thấp). Sớm phát hiện và có chính sách đào tạo, nuôi dưỡng “giữ chân” đối với học sinh ở các trường phổ thông, sinh viên có tiềm năng để tạo nguồn nhân lực cho tỉnh. Vận dụng tích cực, linh hoạt, sáng tạo có hiệu quả các mô hình lãnh đạo công - quản trị tư, đầu tư công - quản lý tư và đầu tư tư - sử dụng công trong giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực và các cơ sở giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực.
Thứ năm, huy động mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục và đào tạo: Đẩy mạnh xã hội hóa các nguồn lực trong đào tạo nguồn nhân lực. Thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng các cơ sở đào tạo chất lượng cao, đa ngành tại tỉnh Quảng Ninh. Tích cực, chủ động trong việc cơ cấu lại nguồn ngân sách nhà nước chi thường xuyên cho giáo dục, đào tạo để thực hiện các nội dung phát triển nguồn nhân lực, nhất là đào tạo ngoại ngữ, tin học, xây dựng các trường học, lớp học thông minh theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Khuyến khích doanh nghiệp thành lập cơ sở đào tạo nghề trong các khu công nghiệp để đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ. Ưu tiên hợp lý nguồn lực phát triển mạng lưới dạy nghề; tiếp tục đầu tư tăng cơ sở vật chất như nhà ở, nhà ăn cho các trường ở huyện miền núi để đón học sinh bán trú tại các vùng, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi về chính sách xã hội để lực lượng lao động yên tâm công tác phục vụ tại các đơn vị kinh tế ở địa phương, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcđáp ứng yêu cầu trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên con đường hoàn thành mục tiêu là một tỉnh dịch vụ, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ là bước đi đúng đắn mà tỉnh Quảng Ninh đang thực hiện. Trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nguồn nhân lực nói chung, nhân lực chất lượng cao nói riêng phải được chuẩn bị sớm hơn, nhanh hơn, cập nhật hơn và theo cách tiếp cận thực tế hơn.
Thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu về nguồn nhân lực tỉnh Quảng Ninh, một số giải pháp trên đây sẽ góp phần phát triển đột phá nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới./.
--------------------------
(1) Xem: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2015 - 2020
Luồng gió mới trong hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa tại Quảng Ninh  (30/09/2023)
Bế mạc hội thảo khoa học “Quảng Ninh nhận diện và phát huy các giá trị văn hóa, con người, tạo nguồn lực cho phát triển nhanh, bền vững”  (30/09/2023)
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
- Một số nội dung chủ yếu trong đường lối, chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa liên quan đến chuyển đổi công nghiệp
- Mối quan hệ giữa già hóa dân số và tăng trưởng kinh tế: Kinh nghiệm của Nhật Bản và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Những vấn đề môi trường cấp bách hiện nay: Thực trạng và giải pháp