I. Khái quát chung

Nằm ở Tây Nam bán đảo Đông Dương, Tây và Tây Bắc giáp Thái Lan, Đông giáp Việt Nam, Đông Bắc giáp Lào, Nam giáp biển. Sông ngòi: tập trung trong 3 lưu vực chính (Tonlé Thom, Tonlé Sap và Vịnh Thái Lan), Vương quốc Cam-pu-chia (The Kingdom of Cambodia) với diện tích 181.035 km2 trong đó đồng bằng chiếm 1/2 diện tích, còn lại là núi, đồi bao quanh đất nước.

- Thủ đô: Phnôm Pênh

- Dân tộc: Người Khơ-mer chiếm 90% gồm Khơ-me giữa (Khmer Kandal), Khơ-me Thượng (Khmer Loeur) và Khơ-me dưới (Khmer Krom)... Ngoài ra còn có: người Mã Lai, Chàm, Lào, Miến Điện, Việt Nam, Thái Lan, Hoa...

- Ngôn ngữ: Tiếng Khơ-me là ngôn ngữ chính thức (95%).

- Tôn giáo: Đạo Phật (khoảng 90%) được coi là Quốc đạo.

- Dân số: 13.971.000 người (2006)

II. Thể chế chính trị

Hiến pháp năm 1993 quy định Cam-pu-chia là quốc gia Quân chủ lập hiến; phân định rõ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp gồm: Vua, Hội đồng ngôi Vua, Thượng viện, Quốc hội, Chính phủ, Toà án, Hội đồng Hiến pháp và các cơ quan hành chính các cấp. Đứng đầu nhà nước là Quốc vương. Đứng đầu Chính phủ hiện nay gồm 1 Thủ tướng và 7 Phó Thủ tướng. Nội các: Hội đồng Bộ trưởng do Vua ký sắc lệnh bổ nhiệm.

Các nhà lãnh đạo chủ chốt hiện nay của Cam-pu-chia:

Quốc vương: Nô-rô-đôm Xi-ha-mô-ni (Norodom Sihamoni) lên ngôi ngày 29-10-2004.

Thủ tướng: Xăm-đéc Hun Xen (Samdeck Hun Xen) trúng cử nhiệm kỳ 2 từ 2003-2008.

Chủ tịch Quốc hội: Iêng Xa-ri (Heng Samri) nhậm chức ngày 21-3-2006.

Chủ tịch Thượng viện: Chia Xim (Chea Sim) trúng cử nhiệm kỳ 2 từ 20-3-2006.

Các đảng phái lớn hiện nay ở Cam-pu-chia: Đảng Nhân dân Cam-pu-chia (CPP); Đảng Mặt trận Đoàn kết Dân tộc vì một nước Cam-pu-chia Độc lập, Trung lập, Hòa bình và Hợp tác (FUNCINPEC) nay tách thành ba Đảng Ra-na-rít (Ranaridh) (NRP) và Đảng Thô-mi-cô (SCNFP), Đảng Xam Rên-xi (Sam Rainsy) (SRP)...

III. Lịch sử phát triển

- Vương quốc Khơ-me ra đời vào cuối thế kỷ thứ 9 trên lãnh thổ của Phù-nam và Chân-lạp trước đây. Kinh đô lúc đó là Ăng-co (Angkor). Từ cuối thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 13, Vương quốc Khơ-me phát triển hưng thịnh.

- Những năm 60 của thế kỷ 19 thực dân Pháp xâm chiếm Đông Dương; năm 1863 đặt Cam-pu-chia dưới sự bảo hộ của Pháp và đến 1884 Cam-pu-chia trở thành thuộc địa của Pháp.

- Năm 1941, Vua Nô-rô-đôm Xi-ha-núc (Norodom Sihanouk) đã vận động đấu tranh giành lại nền độc lập cho Cam-pu-chia. Ngày 9-11-1953, Pháp tuyên bố trao trả độc lập cho Cam-pu-chia. Tháng 4-1955, Xi-ha-núc thoái vị nhường ngôi Vua cho cha là Nô-rô-đôm Xu-ra-na-rít (Norodom Suramarith) để thành lập Cộng đồng xã hội bình dân. Trong cuộc tuyển cử 9-1955, Cộng đồng xã hội bình dân đã giành được thắng lợi lớn, Xi-ha-núc trở thành Thủ tướng. Năm 1960, Quốc vương Nô-rô-đôm Xu-ra-na-rít qua đời, Xi-ha-núc được Quốc hội bầu làm Quốc trưởng Cam-pu-chia.

- Ngày 18-3-1970, Lon Non Xi-ric Ma-tắc (Lon Nol-Siric Matak), được sự hậu thuẫn của Mỹ đảo chính lật đổ Xi-ha-núc, thành lập "Cộng hoà Khơ-me" (10-1970). Quốc vương Xi-ha-núc và Hoàng tộc sang cư trú tại ở nước ngoài.

- Ngày 17-4-1975, Pôn Pốt (Pol Pot) lật đổ Lon Non, thành lập nước "Cam-pu-chia dân chủ", thực hiện chế độ diệt chủng tàn khốc nhất trong lịch sử của Cam-pu-chia.

- Ngày 2-12-1978, Mặt trận giải phóng dân tộc Cam-pu-chia ra đời do ông Iêng Xa-ry làm Chủ tịch. Ngày 7-1-1979, với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, nhân dân Cam-pu-chia đã đứng lên lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt -Iêng Xa-ry, thành lập nước "Cộng hoà Nhân dân Cam-pu-chia", năm 1989 đổi thành "Nhà nước Cam-pu-chia" (SOC).

- Ngày 23-10-1991, Hiệp định hoà bình Cam-pu-chia được ký kết tại Pa-ri (Pháp). Ngày 23 đến 25-5-1993, Tổng tuyển cử lần thứ nhất ở Cam-pu-chia do Cơ quan quyền lực lâm thời của Liên hợp quốc (UNTAC) tổ chức. Ngày 24-9-1993, Quốc hội mới và Chính phủ Liên hiệp CPP-FUNCINPEC (FUN) nhiệm kỳ I được thành lập, tên nước đổi thành Vương quốc Cam-pu-chia theo chế độ Quân chủ lập hiến. N. Xi-ha-núc lên ngôi Vua.

- Ngày 26-7-1998, Tổng tuyển cử lần thứ hai, tiếp tục là Chính phủ liên hiệp giữa CPP và FUNCINPEC. Hun Xen làm Thủ tướng, Hoàng thân Ra-na-rít (Ranariddth) giữ chức chủ tịch Quốc hội.

- Ngày 27-7-2003, Tổng tuyển cử lần thứ ba, Chính phủ liên hiệp CPP-FUNCINPEC nhiệm kỳ III được thành lập, Xăm-đéc Hun Xen tiếp tục giữ chức Thủ tướng, Hoàng thân Ra-na-rít giữ chức Chủ tịch Quốc hội.

- Ngày 6-10-2004, Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc tuyên bố thoái vị; ngày 14-10-2004, Hội đồng Ngôi Vua bầu Hoàng tử Nô-rô-đôm Si-ha-mô-ni làm Quốc vương mới. Ngày 29-10-2004 Quốc vương N.Si-ha-mô-ni chính thức đăng quang.

IV. Kinh tế

Là nước nông nghiệp với 70% dân số làm nghề nông, Cam-pu-chia sở hữu nhiều tài nguyên quý hiếm như đá quý, hồng ngọc, vàng, gỗ. Ăng-co Vát (Angkor Wat) được xếp là một trong số các kì quan nổi tiếng của thế giới. Năm 2005, Cam-pu-chia đã sản xuất được gần 6 triệu tấn thóc (tăng 43% so với năm 2004) đạt sản lượng cao nhất trong 27 năm qua. Mức tăng trưởng kinh tế năm 2005 đạt 13,4% (so với năm 2004 là 11,7%). Bình quân đầu người 432 USD/năm.

Tại Hội nghị các nhà tài trợ cho Cam-pu-chia (CG) lần thứ 8 (3-3-2006), các nước đã cam kết tài trợ cho Cam-pu-chia khoảng 1,4 tỉ USD cho giai đoạn 2006-2008, riêng năm 2006 là 601 triệu USD.

Thị trường xuất khẩu chính của Cam-pu-chia là Mỹ, EU, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam... Kinh tế chủ yếu dựa vào 3 ngành chính là: xuất khẩu dệt may, du lịch và xây dựng.

V. Chính sách đối ngoại:

Theo quy định của Hiến pháp, Cam-pu-chia thực hiện chính sách trung lập, không liên kết vĩnh viễn, không xâm lược hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác; đồng thời, chú trọng quan hệ với các nước lớn, các nước láng giềng và khu vực. Cam-pu-chia tích cực thúc đẩy chính sách phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, du lịch, hội nhập quốc tế và khu vực.

Cam-pu-chia là thành viên Liên hợp quốc, phong trào Không Liên kết (KLK), thành viên thứ 10 của ASEAN (tháng 4-1999), thành viên chính thức thứ 148 của WTO (tháng 9-2003), gia nhập ASEM tại Hội nghị cấp cao ASEM 5 (tháng 10-2004) tại Hà Nội. Cam-pu-chia cũng tích cực tham gia các khuôn khổ hợp tác khu vực khác như: Uỷ hội Mê Công quốc tế (MRC) ; Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia (CLV); Tiểu vùng sông Mê kông mở rộng (GMS); Hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayeyawadi - Chao Praya - Mê Công (ACMECS); Hành lang Đông Tây (WEC)...