Ý Đảng, lòng dân và cam kết của Chính phủ về việc bảo đảm quyền lợi hợp pháp người gửi tiền trong thời kỳ mới (Kỳ 1)
Kỳ 1: Ý Đảng, lòng dân và cam kết của Chính phủ trong việc bảo đảm an sinh xã hội - nhìn từ góc độ bảo vệ quyền lợi hợp pháp người gửi tiền
TCCS - Bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo quyền lợi cho người dân, là một trong những chủ trương, định hướng lớn của Đảng, nhằm phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong thời kỳ đổi mới. Chủ trương này luôn được thể hiện đậm nét trong các văn kiện của Đảng, các nghị quyết của Quốc hội cũng như các chiến lược, kế hoạch, đề án, chương trình của Chính phủ.
Bảo đảm an sinh xã hội toàn diện - Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước
Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng diễn ra vào năm 2001 đến nay, thuật ngữ "an sinh xã hội" đã luôn được Đảng ta đề cập tới trong các nghị quyết đại hội. Tiếp tục kế thừa kết quả đã đạt được, những định hướng tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định việc “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân...”.
Một trong những định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn 2021- 2030 được nêu rõ tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đó là “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ rõ Đảng, Nhà nước nỗ lực bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế”. Đây là yếu tố quan trọng góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với đó, một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ là: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”. Như vậy, an sinh xã hội đã được xác định là yếu tố xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước trong thời gian tới.
Trong gần bốn thập kỷ thực hiện đổi mới, Đảng, Nhà nước ta từng bước chuyển sang hướng tiếp cận dựa trên quyền con người, lấy con người là trung tâm. Bên cạnh đó, hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu được chú trọng đầu tư, phát triển và người dân được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thụ hưởng; tài chính cho an sinh xã hội được tăng cường. Vì vậy, bảo đảm an sinh xã hội đã gắn với tiến bộ và phát triển xã hội, với thành tựu phát triển kinh tế trong bối cảnh kinh tế thị trường; hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện để bảo đảm quyền an sinh xã hội cho mọi người dân.
Để cụ thể hóa quan điểm, đường lối, định hướng và nội dung liên quan của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, bảo đảm phù hợp với tình hình trong nước, quốc tế và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời gian tới, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 50/NQ-CP, ngày 20-5-2021, “Về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề đảm bảo duy trì và thực hiện an sinh xã hội.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam góp phần bảo đảm an sinh xã hội
Điều 2, Quyết định số 1394/QĐ-TTg, ngày 13-8-2013, của Thủ tướng Chính phủ quy định: “Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng”. Theo đó, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một định chế tài chính nhà nước có chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Bảo đảm an sinh xã hội được biểu hiện sinh động ở nhiều lĩnh vực trong đó có việc bảo đảm quyền và lợi ích của người sử dụng dịch vụ tài chính nói chung, người gửi tiền nói riêng. Trong suốt quá trình hoạt động, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã hoạt động tích cực, phát huy vai trò của mình. Đặc biệt, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam luôn xác định nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền là mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
Trước hết, tiền gửi là “của cải” chủ yếu, thuộc sở hữu của số đông dân cư, là lợi ích của những người gửi tiền nhỏ, có ít thông tin, hạn chế năng lực về lĩnh vực tài chính ngân hàng. Họ là những người xứng đáng có được sự bảo vệ tích cực của Nhà nước. Họ cũng là người tích cực nhất bảo vệ quyền lợi của mình khi tổ chức nhận tiền gửi có vấn đề. “Làn sóng” người gửi tiền làm sụp đổ từng ngân hàng hay hệ thống ngân hàng cũng chủ yếu do họ tạo nên. Điều này lý giải tại sao đằng sau hoạt động bảo hiểm tiền gửi luôn luôn có sự hậu thuẫn rõ ràng và mạnh mẽ của Nhà nước vì lợi ích chung của cả cộng đồng.
Nhìn lại bối cảnh ra đời của tổ chức bảo hiểm tiền gửi chính là cuộc suy thoái kinh tế thế giới trầm trọng mà nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính, đã tác động đến hệ thống tài chính, ngân hàng ở nước ta. Nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định, việc sử dụng hiệu quả các công cụ giám sát tài chính, trong đó có bảo hiểm tiền gửi, được xem là một trong những nhu cầu khách quan. Bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiền cũng là một trong những mục tiêu mà Đảng, Chính phủ quan tâm nhằm bảo đảm sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và chính sách an sinh xã hội.
Sau 24 năm hoạt động, tính đến thời điểm hiện tại, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đang bảo vệ cho khoảng 8 triệu tỷ đồng tiền gửi của người gửi tiền tại 1.280 tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm 96 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1.179 quỹ tín dụng nhân dân, 1 ngân hàng hợp tác xã và 4 tổ chức tài chính vi mô. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã chi trả cho 39 quỹ tín dụng nhân dân với 1.793 người gửi tiền, tổng số tiền chi trả là gần 27 tỷ đồng. Việc chi trả tiền bảo hiểm kịp thời đã thể hiện vai trò của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, tạo lập niềm tin của người dân, góp phần ngăn ngừa ảnh hưởng đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống ngân hàng.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam bảo vệ người gửi tiền thông qua 2 hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Với hình thức bảo vệ trực tiếp, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực hiện tuyên truyền, phổ biến chính sách bảo hiểm tiền gửi đa dạng qua nhiều kênh, phương tiện đại chúng nhằm nâng cao nhận thức công chúng, đặc biệt hướng tới đối tượng là sinh viên, người gửi tiền ở vùng sâu, vùng xa - những đối tượng dễ bị tổn thương vì thiếu kiến thức tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền thông qua các hoạt động nghiệp vụ của mình, từ đó góp phần hạn chế rủi ro, giúp các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi hoạt động an toàn, hiệu quả hơn, bảo đảm an toàn tiền gửi của người được bảo hiểm tiền gửi. Bên cạnh hình thức bảo vệ trực tiếp, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền gián tiếp qua việc triển khai những nghiệp vụ chuyên môn, như theo dõi, kiểm tra và giám sát các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xử lý hành vi vi phạm; tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm phát hiện và kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Chính phủ; cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt để hỗ trợ thanh khoản, cho vay đặc biệt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và cho vay đặc biệt theo phương án phục hồi tổ chức tín dụng được phê duyệt, mua trái phiếu dài hạn của tổ chức tín dụng hỗ trợ. Khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả hoặc phá sản, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chi trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật. Cụ thể, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chi trả tiền gửi cho người gửi tiền với hạn mức tối đa là 125 triệu đồng (hạn mức bao phủ 90.72% người gửi tiền được bảo hiểm tiền gửi), số tiền vượt hạn mức sẽ được chi trả trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tài chính đó. Nhờ vậy, người gửi tiền sẽ an tâm hơn khi gửi tiền tại các tổ chức tín dụng có tham gia bảo hiểm tiền gửi, qua đó chủ động hơn trong các giao dịch tài chính, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện.
Ngoài ra, để tham gia có hiệu quả vào quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam còn triển khai các nhiệm vụ: cho vay đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, tham gia xây dựng phương án phá sản tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, tham gia đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi Quỹ tín dụng nhân dân…
Khi được hỏi về điểm đột phá của Chiến lược phát triển Bảo hiểm tiền gửi đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, đồng chí Phạm Bảo Lâm, Ủy viên ban Chấp hành Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương, Bí thư Đảng ủy Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nhấn mạnh: “Tôi cho rằng, điểm đặc biệt của Chiến lược phát triển Bảo hiểm tiền gửi lần này là đặt ra các mục tiêu cụ thể, sát sườn, lượng hóa được các hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi để ngày càng bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người gửi tiền.
Cụ thể, tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số người gửi tiền được bảo hiểm đạt 92 - 95%, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phấn đấu rút ngắn thời gian chi trả thực tế kể từ khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm đến năm 2025 là 30 ngày làm việc và đến năm 2030 là 15 ngày làm việc, nhằm giúp người gửi tiền được tiếp cận sớm với tiền gửi của mình khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được xử lý. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách bảo hiểm tiền gửi tiếp tục được đẩy mạnh khi Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đặt mục tiêu trong chiến lược lần này là đến năm 2025 có 45% và đến năm 2030 có 55% người gửi tiền phải nắm bắt được các nội dung cốt lõi của chính sách bảo hiểm tiền gửi.
Cùng với đó, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với sứ mệnh của một tổ chức tài chính nhà nước có trách nhiệm hưởng ứng, gương mẫu trong tiến trình chuyển đổi số chung của ngành ngân hàng, lấy đó làm cơ sở bảo vệ tốt hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng. Bám sát sự chỉ đạo và định hướng của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương cũng như “Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 411/QĐ-TTg, ngày 31-3-2022, của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2022 - 2025", toàn ngành ngân hàng, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã ban hành Chương trình hành động số 733-CTr/ĐU của Đảng ủy Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, “Về thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/ĐUK về “Thực hiện chuyển đổi số tại các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối Doanh nghiệp Trung ương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”” và một loạt các văn bản liên quan đến chuyển đổi số để tiếp tục thực hiện Kế hoạch chuyển đổi số phù hợp với tiềm lực về nguồn tài chính, nhân sự, hệ thống cơ sở hạ tầng gắn liền với việc “lấy người gửi tiền làm trung tâm”.
Bảo vệ người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính - Lấy người gửi tiền làm trung tâm
Theo chiến lược tài chính toàn diện của Việt Nam được Chính phủ ban hành tháng 1-2020 và kế hoạch triển khai chiến lược tài chính toàn diện của ngành ngân hàng, giáo dục tài chính, bảo vệ người tiêu dùng tài chính là 1 trong 5 nhiệm vụ trọng tâm. Trọng tâm của chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030 đã coi người dân là trung tâm, chủ thể, nhất là những người nghèo, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Do vậy, mọi chính sách ban hành phải hướng tới người dân - người tiêu dùng tài chính ở mỗi quốc gia. Một cơ chế bảo vệ người tiêu dùng hiệu quả sẽ trở thành chìa khóa giúp bảo đảm cho sự thành công của chiến lược tài chính toàn diện dài hạn. Chiến lược khẳng định: “Tài chính toàn diện là việc mọi người dân và doanh nghiệp được tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính một cách thuận tiện, phù hợp nhu cầu, với chi phí hợp lý, được cung cấp một cách có trách nhiệm và bền vững, trong đó chú trọng đến nhóm người nghèo, người thu nhập thấp, người yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ”.
Trong triển khai chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025 định hướng đến năm 2030 đã đề ra những giải pháp chú trọng bảo vệ người tiêu dùng tài chính như: truyền thông, giáo dục nâng cao kiến thức, hiểu biết tài chính, khả năng tư duy tài chính và kỹ năng cho người dân - người tiêu dùng tài chính. Cụ thể, ngành ngân hàng cần chủ động đưa ra nhóm giải pháp để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Bởi, hoạt động tài chính - ngân hàng được ví như “mạch máu” của nền kinh tế.
Đề cập đến mục tiêu để không ai bị bỏ lại phía sau trong chiến lược tài chính toàn diện, Ủy viên Trung ương Đảng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh: Chiến lược sẽ bao trùm đến tất cả người dân, để người dân phát triển thì chiến lược hướng đến đặc biệt là các đối tượng ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đây là những khu vực người dân thường gặp khó khăn, người nghèo hay các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 95% tổng số doanh nghiệp của Việt Nam), cũng là khu vực tạo công ăn việc làm rất lớn cho người dân hay phụ nữ - đối tượng vừa quản lý chi tiêu cho gia đình, vừa là người đi vay vốn để phục vụ sản xuất - kinh doanh cho cuộc sống. Họ cũng là đối tượng tuyên truyền trọng tâm mà chính sách bảo hiểm tiền gửi hướng đến.
Từ góc độ bảo hiểm tiền gửi, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tham gia bảo vệ người tiêu dùng tài chính như thế nào là nhiệm vụ được đặt ra trong bối cảnh Chính phủ đang thực hiện triển khai đồng bộ các nhiệm vụ nhằm thúc đẩy chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, bảo vệ người tiêu dùng nói chung và người tiêu dùng tài chính nói riêng.
Mục tiêu của chính sách bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền - người tiêu dùng tài chính trong nền kinh tế. Khi người gửi tiền có kiến thức và niềm tin vào các tổ chức tài chính, sẽ thúc đẩy các giao dịch tài chính và khuyến khích gửi tiền, tiết kiệm từ người dân. Từ đó, sẽ góp phần tác động đến tài chính toàn diện quốc gia.
Có thể nói, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, cũng chính là bảo vệ người tiêu dùng tài chính - chủ thể, trọng tâm của chiến lược tài chính toàn diện quốc gia thông qua việc cụ thể hóa chính sách bảo hiểm tiền gửi, triển khai đồng bộ các phương pháp nghiệp vụ để củng cố niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống tài chính, nâng cao nhận thức tài chính, nhờ đó đưa ra lựa chọn tốt nhất về tổ chức tín dụng để tham gia các giao dịch tài chính, đồng thời khuyến khích họ sử dụng dịch vụ tài chính chính thống, hợp pháp, từ đó thúc đẩy tài chính toàn diện quốc gia.
Trong suốt quá trình hoạt động, mục đích cơ bản và cốt lõi của chính sách Bảo hiểm tiền gửi về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền - đối tượng có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận thông tin về hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi đã chạm tới độ “bao phủ” của một trong những nội dung cốt lõi mà các Nghị quyết của Đảng nói chung, Nghị quyết Đại hội Đảng XIII nói riêng nêu rõ, đó là “tiếp tục thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nhất là cho những người yếu thế, người nghèo…”./.
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương tổ chức quán triệt quy định mới về xây dựng Đảng  (28/07/2023)
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương tổ chức quán triệt quy định mới về xây dựng Đảng  (28/07/2023)
Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương quyết tâm thực hiện 5 nhiệm vụ trọng tâm, 4 đột phá phát triển  (15/07/2023)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển