TCCSĐT - Tiếp tục chương trình làm việc, sáng 06-11, các đại biểu Quốc hội làm việc tại hội trường nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Phan Thanh Bình trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Sau đó các đại biểu thảo luận về dự án Luật này.

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học đã được Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5.

Tại kỳ họp này, dự án Luật được Quốc hội thảo luận, thông qua, trong đó có một số nội dung lớn đã được tiếp thu, chỉnh lý.

Về hệ thống cơ sở giáo dục đại học dự kiến gồm trường Đại học và Đại học, Học viện và các cơ sở giáo dục đại học có tên gọi khác phù hợp với quy định của pháp luật, trong đó trường Đại học được coi là hạt nhân cơ bản, nền tảng của hệ thống.

Về đẩy mạnh tự chủ đại học: dự thảo quy định cơ chế bảo đảm thực hiện tự chủ thông qua việc xác định rõ về thiết chế hội đồng trường, phân định mối quan hệ giữa hội đồng trường với Hiệu trưởng; quy định cơ chế quản trị phù hợp với tính chất của từng loại hình cơ sở giáo dục đại học; bổ sung nhiều nội dung theo hướng tăng cường quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học về chuyên môn học thuật, tổ chức và nhân sự, tài chính, tài sản.

* Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.

Dự thảo Luật trình Quốc hội lần này đã tiếp thu, chỉnh lý nhiều nội dung quan trọng, trong đó hoàn chỉnh thêm một bước các quy định về tự chủ đại học nhằm bảo đảm thực thi có hiệu quả quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học.

Minh bạch quyền tự chủ

Dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng làm rõ khái niệm tự chủ là quyền được tự xác định mục tiêu, lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định, có trách nhiệm giải trình về các hoạt động chuyên môn, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản, các hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục đại học.

Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Phan Thanh Bình cho biết, dự thảo Luật chỉnh sửa nội dung Điều 32 về quyền tự chủ, trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học theo hướng nêu rõ các điều kiện để được tự chủ; cụ thể hóa các nội dung tự chủ về chuyên môn học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản cũng như chi tiết hóa nội dung về trách nhiệm giải trình và yêu cầu đặt ra đối với cơ sở giáo dục đại học khi thực hiện tự chủ.

Dự thảo Luật được chỉnh lý theo hướng quy định rõ khái niệm về trách nhiệm giải trình; quy định cụ thể các nội dung nhà trường phải công khai, minh bạch với người học, xã hội, cơ quan quản lý và các bên có lợi ích liên quan, đặc biệt là trách nhiệm thực hiện kiểm toán độc lập về tài chính, thực hiện công khai về chất lượng, công khai mức học phí, các khoản thu dịch vụ của nhà trường, cũng như chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu không thực hiện các quy định, cam kết bảo đảm chất lượng đào tạo.

Dự thảo Luật quy định, để được giao quyền tự chủ nhà trường phải đạt kiểm định của một tổ chức kiểm định được Nhà nước công nhận.

Ghi nhận những chỉnh lý về nội dung này, song Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị, dự thảo Luật phải phân định rõ, minh bạch quyền tự chủ một cách đầy đủ đối với những cơ sở giáo dục đại học công lập có đủ điều kiện và các cơ sở giáo dục đại học công lập chưa đủ điều kiện. Bên cạnh đó, cần làm rõ hơn quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học tư thục.

Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, mô hình đại học quốc gia, đại học vùng tiếp tục khẳng định trong dự thảo Luật nhưng chưa có quy định cụ thể về quyền tự chủ của các trường đại học, khoa, viện, trung tâm là thành viên đại học quốc gia và thành viên của đại học vùng. Vướng mắc lớn trong mô hình đại học quốc gia, đại học vùng chính là quan hệ pháp lý và quyền tự chủ của các trường, viện thành viên.

“Thực tế, ngay trong hai Đại học Quốc gia thì những trường thành viên cũng cảm thấy chưa được tự chủ. Vì vậy, mối quan hệ giữa trường thành viên với Đại học Quốc gia, thành viên đại học vùng cũng phải quy định rõ trong Luật này”, Chủ tịch Quốc hội lưu ý.

Nâng cao vai trò, năng lực của Hội đồng trường

Coi tự chủ đại học là cần thiết và phù hợp với xu thế chung, đồng thời cũng là nội dung then chốt cần giải quyết triệt để, nhiều ý kiến cho rằng, đi đôi với mở rộng tự chủ là tăng cường trách nhiệm giải trình, đổi mới quản trị cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là nâng cao vai trò, năng lực của Hội đồng trường.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Phan Thanh Bình, tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã được chỉnh lý thống nhất về tên gọi Hội đồng trường ở cả trường công lập và tư thục; phân biệt Hội đồng trường với Hội đồng đại học.

Hội đồng trường thực hiện quản trị nhà trường thông qua các trách nhiệm, quyền hạn được quy định cụ thể. Hiệu trưởng thực thi quyền quản lý, điều hành nhà trường trên cơ sở quy định pháp luật và theo các nghị quyết của Hội đồng trường, chịu sự giám sát của cơ quan này. Các nội dung về nhiệm kỳ, nguyên tắc làm việc, cơ cấu và tỷ lệ thành viên Hội đồng trường; tiêu chuẩn, chức năng, nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng trường, cũng như yêu cầu về điều kiện bảo đảm hoạt động của Hội đồng trường, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của Hiệu trưởng... đều đã được đề cập rất chi tiết, cụ thể, phù hợp với tính chất của từng loại hình trường.

Để tạo điều kiện thu hút nhiều ứng viên có năng lực, tâm huyết tham gia quản trị, quản lý cơ sở giáo dục đại học, dự thảo Luật không quy định chi tiết về tiêu chuẩn, độ tuổi, số nhiệm kỳ liên tiếp của các chức danh Chủ tịch Hội đồng trường, Hiệu trưởng mà giao cho trường tự chủ quyết định theo quy chế tổ chức và hoạt động trên cơ sở phù hợp với quy định chung của pháp luật.

Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa hội đồng trường với nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng của ban giám hiệu nhà trường và hiệu trưởng. Ví dụ, Điều 16 của dự thảo Luật quy định Hội đồng trường có 11 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn như quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển trường, chính sách tuyển sinh, mở ngành đào tạo, liên kết đào tạo, hợp tác quốc tế, quy định cơ cấu, tổ chức bộ máy…

“Nhưng đi vào thực tế thì như thế nào? Trong bộ máy của Đại học Quốc gia có các trường thành viên; trong trường thành viên lại có các viện, trung tâm, khoa, bộ môn, thư viện… Liệu có phải tất cả bộ máy này đều do Hội đồng trường quyết định hay không? Nếu không, thì phải quy định cụ thể trong luật. Nếu không làm rõ được chỗ này thì rất khó trong vấn đề tự chủ, tự quản, chưa nói đến quản trị, điều hành,” Phó Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.

Trước việc dự thảo Luật quy định nhiều quyền cho Hội đồng trường, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân lưu ý, liệu có biến cơ quan này thành cơ quan quyền lực, biến Hội đồng trường thành cơ quan quản lý, trong khi không làm rõ được vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của hiệu trưởng hay không? Bên cạnh đó, khi Hội đồng trường quá nhiều quyền thì sẽ không làm rõ được vai trò đại diện pháp luật của Hiệu trưởng.

Theo Chủ tịch Quốc hội, dự thảo Luật cần có những quy định rõ ràng, hài hòa để vừa bảo đảm thực quyền của Hội đồng trường, song cũng bảo đảm quyền và trách nhiệm của hiệu trưởng trong quản lý, điều hành hoạt động của cơ sở giáo dục đại học.

Có ý kiến cho rằng, để Hội đồng trường hoạt động đúng nghĩa, bảo đảm chất lượng, dự thảo Luật cần quy định rõ cơ cấu; các thành viên, kể cả các thành viên độc lập cần được trả lương; công khai danh sách thành viên Hội đồng trường trên website của nhà trường như là một yêu cầu bắt buộc; đồng thời, đưa chất lượng của thành viên Hội đồng trường như là một tiêu chí để xếp hạng các trường Đại học và là tiêu chí kiểm định chất lượng.

** Các đại biểu Quốc hội đều tán thành sự cần thiết, nội dung, phạm vi sửa đổi và cho rằng dự án Luật đã đáp ứng yêu cầu, có thể trình Quốc hội xem xét thông qua. Nhiều ý kiến nhận định, dự thảo Luật đã tạo hành lang pháp lý để các cơ sở giáo dục đại học phát huy tự chủ, góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục đại học một cách thực chất hơn.

Đại học Quốc gia, Đại học vùng có nhiệm vụ chiến lược riêng

Dự thảo Luật quy định rõ hệ thống giáo dục đại học Việt Nam bao gồm: trường đại học, học viện (gọi chung là trường đại học); đại học (là tổ hợp các trường đại học; trường trực thuộc) và các cơ sở giáo dục đại học khác phù hợp với quy định của pháp luật.

Hạt nhân cơ bản của hệ thống là trường đại học với cơ cấu tổ chức chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Học viện được điều chỉnh chung với trường đại học do đây chỉ là tên gọi của một số cơ sở giáo dục đại học đã hình thành và đang tồn tại trong thực tiễn mà không có sự khác biệt so với trường đại học cả về cơ cấu tổ chức, chức năng, sứ mệnh.

Đại học là nhóm các trường đại học, viện nghiên cứu thành viên; trường và các đơn vị trực thuộc khác, cùng hoạt động trong một khuôn khổ pháp lý nhằm gia tăng giá trị, khả năng cạnh tranh, đóng góp của toàn hệ thống đối với xã hội.

Đại biểu Huỳnh Thành Đạt (Thành phố Hồ Chí Minh) nhất trí với quy định về tổ chức của hệ thống cơ sở giáo dục đại học được thể hiện như trong dự thảo Luật. Theo đại biểu, đây là những nội dung có ý nghĩa quan trọng thể hiện quan điểm đổi mới hệ thống giáo dục đại học theo xu thế phát triển của thế giới và phù hợp với thực tiễn Việt Nam đồng thời phân biệt, làm rõ khái niệm đại học, trường đại học, học viện, trường thành viên, viện thành viên trong đại học…; quy định rõ vị trí pháp lý của các loại hình trường, xác định Đại học Quốc gia, Đại học vùng là các đại học thực hiện nhiệm vụ chiến lược quốc gia trong việc phát triển các vùng của đất nước.

Về định hướng hình thành, phát triển các đại học lớn trong tương lai, đại biểu Huỳnh Thành Đạt tán thành với quan điểm rất mới, mang tính chiến lược lâu dài được thể hiện trong dự thảo Luật là trường đại học có thể chuyển thành đại học, các trường đại học có thể liên kết với nhau để trở thành đại học. “Với cách như vậy có thể sớm có trường đại học mạnh, đạt chuẩn mực khu vực và quốc tế. Ở Hoa Kỳ, châu âu nhất là Cộng hòa Pháp, xu thế này đang diễn ra rất mạnh mẽ và có hiệu quả. Ở Việt Nam, sau 24 năm xây dựng và phát triển, mô hình Đại học Quốc gia đã chứng tỏ quyết định đúng đắn, mang tầm chiến lược của Đảng, Nhà nước. Hai Đại học Quốc gia đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong đào tạo nghiên cứu khoa học và quản trị đại học; đã đóng góp luận cứ khoa học có giá trị trong xây dựng chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước”, đại biểu Huỳnh Thành Đạt phân tích.

Đồng quan điểm, đại biểu Triệu Thế Hùng (Lâm Đồng) đánh giá, quy định hai cấp độ tổ chức trong hệ thống đại học là bước đột phá trong việc chuyển một hệ thống giáo dục đại học đóng, khép kín, tĩnh sang một mô hình động, linh hoạt hơn, đảm bảo cho việc phát triển đại học thành những trường đa lĩnh vực, quy mô lớn, mạnh…

Theo đại biểu, trên thế giới, ở mỗi nước, tên gọi, mô hình, cơ cấu tổ chức của các cơ sở giáo dục đại học rất phong phú và đa dạng, không có sự phân định rạch ròi. Việc sửa đổi, bổ sung vừa đảm bảo được yêu cầu giữ ổn định hệ thống nhưng cũng mở ra khả năng cho các trường phát triển theo nhiều mô hình khác nhau miễn là nâng cao chất lượng. Theo đó, các trường đại học (gồm các trường đại học độc lập hoặc trường thành viên trong một đại học) được xác định là hạt nhân cơ bản của hệ thống giáo dục đại học.

Ở một góc nhìn khác, đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Long An) cho rằng, vướng mắc, bất cập hiện tại trong tổ chức bộ máy đại học không nằm ở sự tồn tại của Đại học Quốc gia hay đại học vùng mà nằm ở chính trong bộ máy tổ chức của các trường đó. Đại biểu dẫn chứng, theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII, mô hình đại học vùng được thành lập với 3 mục tiêu chính là: giảm đầu mối quản lý và biên chế; dùng chung nguồn lực về cơ sở vật chất; tập trung đầu tư xây dựng thành đại học mạnh. Thực tế trong 24 năm qua cho thấy, các mục tiêu trên đã không đạt được.

Theo đại biểu, nguyên nhân là do đại học bao gồm các trường đại học thành viên và được tổ chức hai cấp, tức là đại học có bộ máy quản lý riêng của đại học và các trường thành viên lại có bộ máy quản lý riêng của mình đã dẫn đến bộ máy chồng chéo.

Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh cho rằng, việc phân cấp như hiện tại không tận dụng đầy đủ lợi thế khiến cho tài năng tri thức năng lực hiện đang bị phân tán. Theo ông, Ngân hàng Thế giới góp ý sửa đổi luật lần này theo hướng, nên sắp xếp lại các trường đại học thành viên nằm trong đại học, thống nhất một bộ máy, tổ chức để phát triển thành một đại học đa lĩnh vực tiến tới đào tạo và công nhận quốc tế. "Tôi kiến nghị Quốc hội sửa đổi bộ máy tổ chức của đại học theo tinh thần Nghị quyết 19, Nghị quyết 56, có thể tổ chức bộ máy một cấp, hoặc có thể sắp xếp lại tổ chức bộ máy đại học hoặc có thể bỏ mô hình này," đại biểu Nguyễn Anh Tuấn nêu ý kiến.

Không thể có đại học vô chủ

Phát biểu tại phiên thảo luận, đại biểu Nguyễn Thiện Nhân (Thành phố Hồ Chí Minh) đồng tình với nhiều nội dung dự án Luật và cho rằng những nội dung đó sẽ tạo điều kiện để có nền giáo dục hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu của đất nước và nhân dân.

Cho ý kiến vào từng nội dung cụ thể, đại biểu Nguyễn Thiện Nhân đề nghị bổ sung khái niệm “chủ sở hữu” vào quy định cơ sở giáo dục đại học bởi đây là vấn đề rất quan trọng. “Chủ sở hữu có 4 quyền: quyền thành lập, quyền đầu tư, quyền quyết định nhân sự và quyền xử lý chế tài đơn vị này khi vi phạm pháp luật. Nếu không làm rõ vấn đề này sẽ thấy đại học như không có chủ, cái đó rất nguy hiểm. Không thể có đại học vô chủ”, đại biểu nhấn mạnh.

Đối với quy định về Hội đồng trường, đại biểu Nguyễn Thiện Nhân cho rằng dự thảo Luật nêu Hội đồng trường đại học công lập là tổ chức đại diện cho quyền chủ sở hữu của nhà nước. "Điều này là chính xác, nhưng chủ sở hữu nhà nước là ai, trong dự thảo chưa xác định. Phải xác định ai là cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước để họ quản lý, giám sát các trường", đại biểu nói.

Ngoài ra, chủ sở hữu phải có một số quyền liên quan. Ví dụ Hội đồng trường họp sẽ bầu ra Chủ tịch Hội đồng trường và các thành viên, nhưng tất cả những người này về nguyên tắc phải bảo đảm yêu cầu của chủ sở hữu.

Dẫn chứng cụ thể trường hợp một giáo sư làm hiệu phó rồi được bầu làm hiệu trưởng, bầu xong sang cơ quan quản lý lại không đạt, đại biểu Nguyễn Thiện Nhân cho rằng trường hợp đáng tiếc này là do chúng ta đang theo quy trình ngược. “Chúng ta quy định Chủ tịch Hội đồng trường do Hội đồng trường bầu theo nguyên tắc đa số, theo tôi là ngược. Chủ tịch Hội đồng trường có thể dự kiến 2-3 người nhưng số người này phải được chủ sở hữu đồng ý. Hội đồng trường bầu trong số đó thôi chứ không phải bầu xong mới đưa chủ sở hữu công nhận, rồi khi đó mới thấy không xứng đáng”, đại biểu Nguyễn Thiện Nhân chỉ rõ.

Đối với xếp hạng cơ sở giáo dục đại học, ngành đào tạo (Điều 9), một số ý kiến cho rằng đây là quy định rất cần thiết, tạo động lực cho các cơ sở giáo dục đại học phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo, giúp người học có thêm thông tin để chọn trường.

Để bảo đảm việc xếp hạng minh bạch, khách quan, trung thực, đại biểu Lê Quang Trí (Tiền Giang) đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung quy định về các tổ chức xếp hạng như điều kiện thành lập, tiêu chí, tiêu chuẩn xếp hạng, trách nhiệm, quyền hạn của tổ chức này… Nếu các tổ chức xếp hạng này không trung thực, không khách quan thì ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của các cơ sở giáo dục đại học cũng như quyết định chọn trường của sinh viên.

** Xung quanh vấn đề đào tạo nhân lực trong ngành y tế, nhiều đại biểu đã trao đổi cho rằng còn nhiều bất cập và đưa ra những ý kiến thảo luận để hoàn thiện Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học hoàn thiện hơn.

Đào tạo bác sỹ nội trú 9 năm: Sẽ được quy định ở luật nào?

Đại biểu Quốc hội Lê Thị Yến, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Thọ bày tỏ quan điểm về một số vấn đề liên quan đến quy định đối với đào tạo nhân lực y tế.

Theo đại biểu Yến, về quy định trình độ đào tạo của giáo dục đại học tại khoản 1 Điều 6 quy định "Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học quy định tại luật này bao gồm trình độ đại học, trình độ thạc sỹ và trình độ tiến sỹ". Nhưng, nghề y là nghề đặc biệt, nhân lực y tế phải đáp ứng yêu cầu chuyên môn và y đức, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt để trở thành người bác sỹ hành nghề chuyên môn sau khi đã hoàn thành chương trình đào tạo 6 năm ở trường đại học. Người học còn phải thường xuyên đào tạo, cập nhật, phát triển nghề nghiệp. Trong 6 năm học tập để trở thành bác sỹ cũng không giống như những chương trình cử nhân khác.

Đại biểu Yến nhấn mạnh, chương trình đào tạo bác sỹ bao gồm các hợp phần thực hành và các giai đoạn trải nghiệm công việc trực tiếp tại các cơ sở y tế dựa trên các nền tảng lý thuyết. Nội dung chương trình đào tạo phức tạp hơn các chương trình cử nhân 4 năm, với thời gian đào tạo dài hơn từ 1 đến 2 năm. Sau đào tạo đại học là đào tạo chuyên khoa sâu, có bác sỹ chuyên khoa 1, bác sỹ chuyên khoa 2 và bác sỹ nội trú. Riêng đối với đào tạo bác sỹ nội trú là 9 năm. Những đối tượng này không thể hòa cùng với trình độ và văn bằng là cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ được nhưng trình độ và văn bằng chuyên sâu chưa được quy định trong Luật Giáo dục đại học trình lần này. Vậy, trình độ và văn bằng chuyên sâu sẽ được quy định ở luật nào.

“Quy định như ở khoản 1 Điều 6 cũng không nhất quán và đồng bộ tại Điều 73, vì, tại Điều 73 quy định giao cho Chính phủ quy định trình độ tương đương nhưng ở khoản 1 Điều 6 lại không có. Chính phủ sẽ căn cứ vào đâu, vào cơ sở pháp lý nào để Chính phủ quy định. Đồng thời, nếu Điều 73 đã quy định giao cho Chính phủ quy định trình độ tương đương thì điều đó chứng tỏ ban soạn thảo đã công nhận còn có những trình độ thuộc giáo dục đại học mà không phải là cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ. Vậy, chương trình đào tạo bác sỹ chuyên sâu như bác sỹ chuyên khoa 1, bác sỹ chuyên khoa 2 và bác sỹ nội trú là tương đương với chương trình đào tạo nào và tương đương với văn bằng nào. Do đó, cần phải có quy định cụ thể riêng đối với đào tạo nhân lực y tế”, đại biểu Yến phân tích.

“Từ những phân tích trên, tôi đề nghị bổ sung và sửa khoản 1 Điều 6 thành: "Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học quy định tại luật này bao gồm trình độ đại học, trình độ thạc sỹ, trình độ tiến sỹ, trình độ chuyên gia. Chính phủ quy định trình độ chuyên gia đối với một số ngành đào tạo theo định hướng chuyên sâu đặc thù", đại biểu Yến cho hay.

Thứ hai, về văn bằng giáo dục đại học được quy định tại khoản 1 Điều 38. Để nhất quán và đồng bộ với quy định tại khoản 1 Điều 6, tôi đề nghị bổ sung và sửa khoản 1 Điều 38 thành: "Văn bằng giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân gồm bằng cử nhân, bằng thạc sỹ, bằng tiến sỹ, bằng chuyên gia. Chính phủ quy định văn bằng chuyên gia đối với một số ngành đào tạo theo định hướng nghề nghiệp chuyên sâu".

Đại biểu Yến nhấn mạnh, nghề y là một nghề đặc biệt và đào tạo nhân lực y tế là đào tạo đặc biệt, là vấn đề liên ngành quy định về đào tạo, quy định về đào tạo thì do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì theo Luật Giáo dục đại học. Quy định về hoạt động chuyên môn y tế do Vụ Y tế chủ trì theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh và các luật chuyên ngành. Quy định về tài chính như chi phí cho đào tạo, thù lao cho giảng viên và người học tại bệnh viện do Bộ Tài chính chủ trì theo luật về giá, luật về phí. Quy định về chế độ đãi ngộ thì do Bộ Nội vụ chủ trì.

Vì vậy, cần phải được thể chế hóa một cách rõ ràng, cụ thể, minh bạch và nhất quán. Do đó, tôi đề nghị sửa đổi Điều 73, sẽ bổ sung từ "chuẩn" vào trước cụm từ "chương trình đạo tạo" thay cụm từ "trình độ tương đương" bằng cụm từ "trình độ chuyên gia" và tách Điều 73 thành 2 khoản để nhất quán và đồng bộ với khoản 1 Điều 6 và khoản 1 Điều 38.

Như vậy, khoản 1 Điều 73 sẽ được sửa lại là "Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết hướng dẫn thi hành các điều khoản được giao trong luật". Khoản 2 "Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh, thời gian đào tạo chuẩn chương trình đào tạo, điều kiện tổ chức đào tạo, quản lý đào tạo, trình độ chuyên gia, văn bằng, chứng chỉ phù hợp với lĩnh vực sức khỏe và một số lĩnh vực chuyên sâu đặc thù".

Tôi cảm thấy mình bị gạt ra khỏi hệ thống đào tạo”

Trong phiên thảo luận, đại biểu Vũ Thị Nguyệt - Đoàn đại biểu tỉnh Hưng Yên đã tham gia đóng góp ý kiến vào dự án Luật Giáo dục đại học trước khi Quốc hội biểu quyết thông qua, với vai trò là một cán bộ đang công tác trong ngành y tế.

Theo đại biểu Nguyệt, về trình độ và văn bằng giáo dục đại học. Có thể nói đào tạo nhân lực y tế là loại hình đào tạo đặc biệt, đặc biệt ở đây là đặc biệt cả về thời gian đào tạo, hình thức đào tạo cũng như văn bằng, chứng chỉ. Để trở thành bác sĩ hành nghề chuyên môn thì ngoài 6 năm được đào tạo ở trong trường đại học cần phải thêm ít nhất từ 2-3 năm đào tạo chuyên sâu theo hướng đào tạo hàn lâm nghiên cứu gồm có thạc sĩ, tiến sĩ và hướng đào tạo hành nghề chuyên môn gồm chuyên khoa, chuyên khoa sâu như bác sĩ nội trú chuyên khoa I và chuyên khoa II. Bên cạnh đó, cán bộ y tế còn phải thường xuyên đào tạo cập nhật kiến thức và việc học đối với cán bộ y tế gần như suốt đời và không bao giờ là đủ.

Đối với loại hình đào tạo bác sĩ nội trú, có thể nói đây là nguồn nhân lực tinh túy, chất lượng cao của ngành y tế. Đối với loại hình đào tạo chuyên khoa I, chuyên khoa II, đây là đội ngũ cán bộ chủ lực trong công tác khám, điều trị, chăm sóc sức khỏe nhân dân ở các bệnh viện có đóng góp rất lớn trong việc thực hiện chuyên môn của ngành y tế. Các loại hình đào tạo này đã tồn tại mấy chục năm nay, được hệ thống giáo dục xã hội và thế giới công nhận.

“Bản thân tôi cũng là một bác sỹ chuyên khoa I, tôi rất băn khoăn khi trong dự thảo Luật Giáo dục đại học lần này bỏ mất trình độ và văn bằng chuyên sâu. Trong khi thực tế, đây không phải vấn đề mới do thực chất Điều 39 Luật Giáo dục năm 1998 đã quy định và có những hướng dẫn cụ thể tại các văn bản dưới luật, nhưng không hiểu sao trong những luật sau thì không quy định loại hình đào tạo cũng như loại văn bằng này.

Tôi và rất nhiều cán bộ y tế trong ngành cảm thấy mình bị gạt ra khỏi hệ thống đào tạo chung và rất tâm tư khi không biết mình đang đứng ở đâu và được ai công nhận. Nếu như trong dự luật lần này tiếp tục không quy định thì có thể phải 10 năm nữa những người như chúng tôi tiếp tục hành trình tìm lại chính mình do đã bị pháp luật bỏ quên. Do đó, tôi đề nghị ngay trong dự thảo luật lần này cần quy định rõ trong khoản 1 Điều 6 trình độ tương đương với trình độ thạc sỹ, tiến sỹ hoặc trình độ chuyên gia, điều này cũng phù hợp với thực tiễn trong nước và trên thế giới,” đại biểu Nguyệt nêu rõ.

Về phân loại cơ sở giáo dục đại học. Như đại biểu Nguyệt đã nêu, trong đào tạo y khoa có 2 hướng là hàn lâm nghiên cứu và hướng đào tạo hành nghề chuyên nghiệp, cả 2 hướng này đều rất quan trọng và thực hiện đồng thời để đáp ứng yêu cầu của hệ thống. Nếu theo quy định tại khoản 4 Điều 7 xác định cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu hoặc cơ sở giáo dục đại học định hướng giáo dục, đại biểu lo ngại các cơ sở giáo dục đại học chuyên về lĩnh vực y tế sẽ không biết xếp vào nhóm nào. Bởi các cơ sở giáo dục đại học chuyên về lĩnh vực y tế thường đào tạo theo cả 2 hướng là đào tạo theo hướng nghiên cứu và đào tạo theo hướng ứng dụng, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu cân nhắc lại điều này.

Ba là về quản lý nhà nước, quản trị và tự chủ giáo dục đại học, trong dự thảo luật có tới 10 cụm từ "cơ quan có thẩm quyền", đại biểu đề nghị làm rõ đó là những cơ quan nào. Luật cũng cần có những quy định về vai trò các cơ quan chuyên ngành, đặc biệt là ngành y tế vì quá trình học tập gắn liền với các cơ sở y tế, đòi hỏi phải tuân thủ các quy định chuyên môn như Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, Luật Dược...

“Các quy định về chuẩn chương trình kiểm định chất lượng, tổ chức đào tạo, giảng viên phải phù hợp với nguyên lý giáo dục, phù hợp với yêu cầu chuyên môn để không ảnh hưởng tới chất lượng chung của y tế. Do đó, tôi đề nghị các Điều 33, 49, 54, 65, 68, 69 và Điều 73 cần phải làm rõ. Ví dụ, Điều 32 quy định về tự chủ trong đó có mở ngành nhưng Điều 33 quy định đối với mở ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Như vậy, có thể hiểu các trường chuyên ngành y tế sẽ không được tự chủ và như vậy có thể có được tự chủ xác định mức thu học phí như quy định tại điểm a khoản 2 Điều 65 hay không,” đại biểu Nguyệt phân tích.

Mặt khác, việc tự chủ là một xu hướng tất yếu trong lĩnh vực y tế, tự chủ chỉ thực hiện ở lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh còn trong lĩnh vực y tế cơ sở và y tế dự phòng thì nhà nước vẫn phải có cơ chế để bảo đảm. Chính vì vậy, cần có quy định về chính sách cho những cơ sở đào tạo các chuyên ngành về lĩnh vực y tế dự phòng, pháp y, tâm thần, lao, phong... cần có quy định về việc quản lý nếu các cơ sở giáo dục đại học không thể tự chủ nhưng vẫn phải thực hiện các nhiệm vụ chính trị do nhà nước giao.

Tại khoản 3 Điều 54 dự thảo đang quy định tiêu chuẩn giảng viên đại học tối thiểu là thạc sỹ, tiến sỹ. Như vậy, trong các bệnh viện chủ yếu là những người có bằng chuyên khoa I, chuyên khoa II hay nội trú có trình độ chuyên môn tay nghề rất giỏi đang tham gia giảng dạy thì sẽ công nhận họ như thế nào?

Do đó, đại biểu Nguyệt đề nghị Quốc hội quan tâm, xem xét, điều chỉnh, bổ sung để dự thảo luật được hoàn thiện và đặc biệt được sửa đổi Điều 6, Điều 38 và Điều 73.

Quy định còn chung chung và mơ hồ

Đại biểu Quốc hội, Phó Giáo sư Nguyễn Lân Hiếu - Phó Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, giảng viên Đại học Y Hà Nội đề cập đến chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục - đào tạo lĩnh vực Y khoa.

“Hiện nay chúng ta có quá nhiều cơ sở đào tạo bác sỹ đa khoa. Theo thống kê năm 2015 đạt tỷ lệ 7,61 bác sỹ và 2,2 dược sỹ trên 10.000 dân. Đó là tỷ lệ thấp so với nhiều nước phát triển trên thế giới nhưng không quá thấp so với các nước đang phát triển trong khu vực. Tuy nhiên lại có sự chênh lệch lớn về số lượng và chất lượng giữa các cơ sở đào tạo. Chúng ta cần bác sĩ giỏi hơn là nhiều bác sĩ trình độ kém. Theo dự thảo Luật có trường đại học sẽ xác định theo hướng nghiên cứu hoặc theo hướng ứng dụng nhưng trường đại học y khoa phải bao gồm cả 2 hướng này vì y học là một môn học đặc biệt.

Chính vì vậy tôi rất mong muốn trong dự án Luật Giáo dục Đại học cần bổ sung điều khoản về bằng tốt nghiệp bác sỹ đa khoa cần trải qua một kỳ thi tốt nghiệp cả lý thuyết và thực hành với trình độ tương đương trong cả nước (National examination) để đảm bảo chất lượng đầu ra của một ngành liên quan trực tiếp đến mạng sống con người”, đại biểu Hiếu nhấn mạnh.

Đồng tình với quan điểm này, bên hành lang Quốc hội, đại biểu Nguyễn Anh Trí (Đoàn Hà Nội) ghi nhận việc ban soạn thảo đã bổ sung, sữa chữa nhiều nội dung mà đại biểu góp ý và cho rằng bên cạnh đó còn nhiều điểm bất cập.

Theo ông Trí, đào tạo y khoa trong Luật có điều 73 trong đó gần như gom hết vào những quy định chung, đào tạo đặc thù chuyên sâu như vậy thì giao cho Chính phủ quyết định.

“Thứ nhất quy định chung như thế còn hơi chung chung và mơ hồ. Điều thứ 2 tôi lo sợ hơn là sau này ý đó không đi được vào trong thực tế cuộc sống. Vì không biết đến bao giờ Chính phủ mới tập trung họp để triển khai giải quyết vấn đề này mà đó là những vấn đề đang còn tồn tại, tồn động rất lớn ở các trường đại học Y khoa mà dẫn đến vấn đề đào tạo bác sĩ chuyên khoa như hiện nay còn nhiều bất cập”, ông Trí nhấn manh.

Bởi thế, vị đại biểu Trí kiến nghị cần thống nhất mô hình đào tạo y khoa nói chung ở Việt Nam cho đúng với Quốc tế./.