Vĩnh Phúc hướng đến mục tiêu trở thành tỉnh nông thôn mới
09:55, ngày 19-12-2017
TCCSĐT - Vĩnh Phúc là tỉnh đứng thứ ba toàn quốc trong xây dựng nông thôn mới với 94 xã đạt chuẩn. Đó là thành quả nổi bật của Vĩnh Phúc có được sau gần 7 năm đồng sức, đồng lòng, thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Từ những chủ trương đúng
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2020; Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành nhiều cơ chế, chính sách cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Ủy ban nhân dân tỉnh cụ thể hóa việc thực hiện bằng các chương trình, kế hoạch, đề án, quyết định.
Trong những năm qua, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành nhiều chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn nhằm nâng cao đời sống của người dân, nhờ đó, nông nghiệp Vĩnh Phúc liên tục tăng trưởng, sản xuất phát triển toàn diện, đúng hướng; cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển dịch tích cực, đã hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung chuyên canh hoặc thâm canh cao với phương thức sản xuất tiên tiến, theo hướng công nghiệp, hiện đại.
Tốc độ tăng trưởng sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản bình quân ước đạt 3,4%/năm. Công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm cũng được tỉnh triển khai tích cực, tạo việc làm mới cho hàng trăm nghìn lao động, các hộ nghèo, cận nghèo được hỗ trợ vay vốn, phát triển sản xuất, hỗ trợ tiền điện, mua thẻ bảo hiểm y tế... Từ những hoạt động đó, đã góp phần bảo đảm an sinh xã hội khu vực vùng nông thôn, thu nhập đầu người năm sau cao hơn năm trước, ước đạt trên 28 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 2,5%.
Đến những kết quả đạt được
Theo thống kê của Văn phòng Điều phối Chương trình xây dựng nông thôn mới tỉnh, đến hết tháng 9-2017, Vĩnh Phúc có 02 huyện (Yên Lạc, Bình Xuyên); 92/112 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Có 92% đường liên xã, trục xã, 83% đường trục thôn, ngõ xóm và 65% đường giao thông nội đồng được cứng hóa; 100% kênh loại I, II và 95% kênh loại III đã kiên cố hóa; 100% số hộ dân được sử dụng điện thường xuyên, an toàn; 348/390 trường học đạt chuẩn quốc gia (đạt 89,2%); 92/112 xã có trung tâm văn hóa thể thao xã đạt chuẩn; 1.015/1.072 thôn có nhà văn hóa. Kết cấu hạ tầng thương mại từng bước hoàn thiện và đồng bộ, 62/100 chợ nông thôn trong quy hoạch được đầu tư, trong đó, có 34 chợ được xây mới, 28 chợ cải tạo, nâng cấp. Hỗ trợ kinh phí xóa 5.348 nhà tạm cho hộ nghèo, cải tạo nâng cấp 108/112 trạm y tế; 15 công trình xử lý nước thải khu dân cư, 400 nghĩa trang và hơn 600 km rãnh thoát nước thải được xây mới, nâng cấp...
Sau gần 07 năm thực hiện, tổng nguồn vốn đầu tư xây dựng nông thôn mới lên đến trên 20.620 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương hỗ trợ trên 183 tỷ đồng, chiếm 0,89%; ngân sách địa phương hỗ trợ 6.701 tỷ đồng, chiếm 32,5%; còn lại nguồn vốn từ các chương trình khác và người dân đóng góp. Sản xuất nông nghiệp của tỉnh chuyển dịch mạnh theo hướng tích cực, tỷ trọng trồng trọt giảm, tỷ trọng chăn nuôi - thủy sản tăng; chăn nuôi của tỉnh thực sự trở thành ngành sản xuất chính. Các mô hình sản xuất hàng hóa tập trung từng bước được hình thành, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tỉnh đã xây dựng được 789 vùng trồng trọt sản xuất hàng hóa với tổng diện tích 6.239,21 ha, gồm các loại cây trồng chủ yếu như bí đỏ, bí xanh, cà chua, dưa chuột, dưa hấu, dưa lê, khoai tây, ớt, su su, với sự tham gia của 76.089 hộ dân. Giá trị thu nhập từ trồng bí đỏ đạt 64 triệu đồng/ha/vụ, ớt đạt 110 triệu đồng/ha/vụ, dưa các loại đạt 143 triệu đồng/ha/vụ, cá biệt cà chua đạt 183 triệu đồng/ha/vụ, su su đạt trên 200 triệu đồng/ha/năm. Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất được đẩy mạnh; chăn nuôi phát triển theo hướng trang trại, đặc biệt phát triển đàn bò sữa (hiện toàn tỉnh có khoảng 8.733 con bò sữa, so với năm 2010 tăng 7.244 con) gắn với tiêu thụ sữa theo hợp đồng với các doanh nghiệp lớn. Các loại hình kinh tế tập thể và hình thức liên kết sản xuất được mở rộng.
Những kết quả đạt được là rất đáng khích lệ, song phải thẳng thắn nhìn nhận Chương trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh vẫn còn tồn tại những khó khăn, hạn chế đó là: Công tác tuyên truyền ở một số nơi chưa thường xuyên, liên tục; công tác đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều vướng mắc dẫn đến tiến độ một số dự án chậm triển khai thực hiện, nhất là các công trình xây dựng chợ, các thiết chế văn hóa xã, thôn; việc huy động nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới ở một số xã còn ít trong khi lập dự toán công trình quy mô quá lớn, vượt khả năng cân đối vốn dẫn đến nợ đọng trong xây dựng cơ bản.
Để thực hiện mục tiêu trở thành tỉnh nông thôn mới, đến nay toàn tỉnh đã có 94/112 xã (83,9%) đạt chuẩn; Thành phố Vĩnh Yên, Thị xã Phúc Yên hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và 6/7 huyện (Yên Lạc, Bình Xuyên, Tam Đảo, Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương) đạt chuẩn nông thôn mới... Thời gian tới, Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới từ tỉnh xuống cơ sở tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức, phát huy cao sự tham gia tích cực chủ động của nhân dân và sự quan tâm của toàn xã hội tham gia chương trình; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tổng kết, rút kinh nghiệm, chỉ đạo nhân rộng; kịp thời biểu dương, khen thưởng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa với việc biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào xây dựng nông thôn mới và tăng cường học tập, trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương trong và ngoài tỉnh. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách thực hiện chương trình. Xây dựng, ban hành chính sách đối với các vùng đặc thù, trong đó ưu tiên hỗ trợ đầu tư các công trình trực tiếp phục vụ phát triển sản xuất theo Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Rà soát, sửa đổi bổ sung để ban hành đồng bộ các chính sách về huy động nguồn lực để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình, trong đó ưu tiên cho các vùng còn nhiều khó khăn; tăng cường phân cấp cho cấp xã, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân và cộng đồng thực hiện. Huy động các nguồn lực xã hội và cân đối đủ nguồn lực, đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Bên cạnh đó, tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục rà soát, điều chỉnh quy hoạch nông thôn mới; xây dựng sở hạ tầng thiết yếu, phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân; đẩy mạnh công tác giảm nghèo và an sinh xã hội; phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thôn; chỉ đạo các cơ sở y tế nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân; phát huy vai trò của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội trong xây dựng nông thôn mới; cải thiện và nâng cao chất lượng các dịch vụ hành chính công; bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân; giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội nông thôn, hướng tới mục tiêu hoàn thành Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Một số kinh nghiệm
Một là, công tác chỉ đạo phải sâu sát, quyết liệt, bảo đảm tiến độ thực hiện từng tiêu chí, dự án, công trình. Chủ động xây dựng các cơ chế, chính sách, nguồn lực; phân cấp, phân quyền, phân trách nhiệm từ tỉnh đến cơ sở.
Hai là, khẳng định và tạo điều kiện về cơ chế chính sách để người dân thực sự làm chủ thể, phát huy vai trò tích cực của các thôn, xóm trong xây dựng nông thôn mới là yếu tố quyết định cho sự thành công của Chương trình. Cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động và phát huy tính chủ động và sáng tạo của người dân. Nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch, thực sự quan tâm tới lợi ích thiết thực của người dân trong việc lựa chọn nội dung, quản lý, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện Chương trình nông thôn mới ở địa phương.
Ba là, thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới là quá trình vừa làm vừa học. Đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới các cấp cần phải có năng lực, trách nhiệm, tâm huyết, được cập nhật thông tin, đào tạo tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ thường xuyên.
Các địa phương cần chú trọng đào tạo cán bộ chủ chốt, có năng lực, trách nhiệm, tâm huyết, làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân, tạo ra được sự đồng thuận cao thì sẽ dễ huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc và đều đạt kết quả cao trong thực hiện các tiêu chí.
Bốn là, cần nêu cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, giám sát của Hội đồng nhân dân và sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là vai trò của người đứng đầu. Cấp ủy các cấp cần có sự lãnh đạo thường xuyên, sâu sát, quyết liệt; có kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chương trình ở mỗi địa phương, đơn vị.
Năm là, nguồn lực của Nhà nước rất quan trọng, có tác dụng như “đòn bẩy” trong xây dựng nông thôn mới. Do đó, phải có chính sách hỗ trợ phù hợp, thực hiện công khai, minh bạch, tạo được niềm tin và sự đồng thuận cao trong nhân dân để huy động được nhiều nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là vốn và đất đai. Khi triển khai thực hiện Chương trình, các cấp, các ngành cần cân đối nguồn lực bảo đảm bố trí đủ vốn, kịp thời theo cơ chế đầu tư hỗ trợ của tỉnh và của địa phương. Các sở, ngành, ủy ban nhân dân cấp huyện, kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn nhất quán, ngắn gọn, dễ thực hiện; cần phân cấp, phân quyền rõ ràng, phù hợp thực tế.
Việc huy động nội lực trong dân phải theo nhiều hình thức: đóng góp trực tiếp bằng công sức, tiền của vào các công trình; đóng góp gián tiếp bằng đầu tư vào sản xuấ kinh doanh, tạo việc làm để nâng cao thu nhập, đầu tư cải tạo, nâng cấp nhà ở, công trình vệ sinh, cải tạo vườn, ao, tường rào, cổng ngõ để có cảnh quan môi trường sạch đẹp... Việc đóng góp phải được bàn bạc dân chủ và thống nhất, có sự giám sát cộng đồng, bảo đảm công khai, minh bạch thì người dân sẽ tin tưởng và tích cực tham gia. Người dân phải thường xuyên chăm lo xây dựng, giữ gìn cơ sở vật chất, nếp sống văn minh mới có thể duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới đã đạt được.
Sáu là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình tổ chức thực hiện Chương trình; kịp thời khen thưởng, động viên những tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc, phê bình, uốn nắn những tổ chức, cá nhân làm chưa tốt nhằm khích lệ các cơ quan, đơn vị và toàn thể nhân dân tích cực thực hiện Chương trình; hằng năm tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm chỉ đạo và tổ chức thưc hiện cho những năm tiếp theo đạt hiệu quả./.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2020; Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành nhiều cơ chế, chính sách cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Ủy ban nhân dân tỉnh cụ thể hóa việc thực hiện bằng các chương trình, kế hoạch, đề án, quyết định.
Trong những năm qua, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành nhiều chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn nhằm nâng cao đời sống của người dân, nhờ đó, nông nghiệp Vĩnh Phúc liên tục tăng trưởng, sản xuất phát triển toàn diện, đúng hướng; cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển dịch tích cực, đã hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung chuyên canh hoặc thâm canh cao với phương thức sản xuất tiên tiến, theo hướng công nghiệp, hiện đại.
Tốc độ tăng trưởng sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản bình quân ước đạt 3,4%/năm. Công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm cũng được tỉnh triển khai tích cực, tạo việc làm mới cho hàng trăm nghìn lao động, các hộ nghèo, cận nghèo được hỗ trợ vay vốn, phát triển sản xuất, hỗ trợ tiền điện, mua thẻ bảo hiểm y tế... Từ những hoạt động đó, đã góp phần bảo đảm an sinh xã hội khu vực vùng nông thôn, thu nhập đầu người năm sau cao hơn năm trước, ước đạt trên 28 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 2,5%.
Đến những kết quả đạt được
Theo thống kê của Văn phòng Điều phối Chương trình xây dựng nông thôn mới tỉnh, đến hết tháng 9-2017, Vĩnh Phúc có 02 huyện (Yên Lạc, Bình Xuyên); 92/112 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Có 92% đường liên xã, trục xã, 83% đường trục thôn, ngõ xóm và 65% đường giao thông nội đồng được cứng hóa; 100% kênh loại I, II và 95% kênh loại III đã kiên cố hóa; 100% số hộ dân được sử dụng điện thường xuyên, an toàn; 348/390 trường học đạt chuẩn quốc gia (đạt 89,2%); 92/112 xã có trung tâm văn hóa thể thao xã đạt chuẩn; 1.015/1.072 thôn có nhà văn hóa. Kết cấu hạ tầng thương mại từng bước hoàn thiện và đồng bộ, 62/100 chợ nông thôn trong quy hoạch được đầu tư, trong đó, có 34 chợ được xây mới, 28 chợ cải tạo, nâng cấp. Hỗ trợ kinh phí xóa 5.348 nhà tạm cho hộ nghèo, cải tạo nâng cấp 108/112 trạm y tế; 15 công trình xử lý nước thải khu dân cư, 400 nghĩa trang và hơn 600 km rãnh thoát nước thải được xây mới, nâng cấp...
Sau gần 07 năm thực hiện, tổng nguồn vốn đầu tư xây dựng nông thôn mới lên đến trên 20.620 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương hỗ trợ trên 183 tỷ đồng, chiếm 0,89%; ngân sách địa phương hỗ trợ 6.701 tỷ đồng, chiếm 32,5%; còn lại nguồn vốn từ các chương trình khác và người dân đóng góp. Sản xuất nông nghiệp của tỉnh chuyển dịch mạnh theo hướng tích cực, tỷ trọng trồng trọt giảm, tỷ trọng chăn nuôi - thủy sản tăng; chăn nuôi của tỉnh thực sự trở thành ngành sản xuất chính. Các mô hình sản xuất hàng hóa tập trung từng bước được hình thành, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tỉnh đã xây dựng được 789 vùng trồng trọt sản xuất hàng hóa với tổng diện tích 6.239,21 ha, gồm các loại cây trồng chủ yếu như bí đỏ, bí xanh, cà chua, dưa chuột, dưa hấu, dưa lê, khoai tây, ớt, su su, với sự tham gia của 76.089 hộ dân. Giá trị thu nhập từ trồng bí đỏ đạt 64 triệu đồng/ha/vụ, ớt đạt 110 triệu đồng/ha/vụ, dưa các loại đạt 143 triệu đồng/ha/vụ, cá biệt cà chua đạt 183 triệu đồng/ha/vụ, su su đạt trên 200 triệu đồng/ha/năm. Sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất được đẩy mạnh; chăn nuôi phát triển theo hướng trang trại, đặc biệt phát triển đàn bò sữa (hiện toàn tỉnh có khoảng 8.733 con bò sữa, so với năm 2010 tăng 7.244 con) gắn với tiêu thụ sữa theo hợp đồng với các doanh nghiệp lớn. Các loại hình kinh tế tập thể và hình thức liên kết sản xuất được mở rộng.
Những kết quả đạt được là rất đáng khích lệ, song phải thẳng thắn nhìn nhận Chương trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh vẫn còn tồn tại những khó khăn, hạn chế đó là: Công tác tuyên truyền ở một số nơi chưa thường xuyên, liên tục; công tác đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều vướng mắc dẫn đến tiến độ một số dự án chậm triển khai thực hiện, nhất là các công trình xây dựng chợ, các thiết chế văn hóa xã, thôn; việc huy động nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới ở một số xã còn ít trong khi lập dự toán công trình quy mô quá lớn, vượt khả năng cân đối vốn dẫn đến nợ đọng trong xây dựng cơ bản.
Để thực hiện mục tiêu trở thành tỉnh nông thôn mới, đến nay toàn tỉnh đã có 94/112 xã (83,9%) đạt chuẩn; Thành phố Vĩnh Yên, Thị xã Phúc Yên hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và 6/7 huyện (Yên Lạc, Bình Xuyên, Tam Đảo, Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương) đạt chuẩn nông thôn mới... Thời gian tới, Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới từ tỉnh xuống cơ sở tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức, phát huy cao sự tham gia tích cực chủ động của nhân dân và sự quan tâm của toàn xã hội tham gia chương trình; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tổng kết, rút kinh nghiệm, chỉ đạo nhân rộng; kịp thời biểu dương, khen thưởng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa với việc biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào xây dựng nông thôn mới và tăng cường học tập, trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương trong và ngoài tỉnh. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách thực hiện chương trình. Xây dựng, ban hành chính sách đối với các vùng đặc thù, trong đó ưu tiên hỗ trợ đầu tư các công trình trực tiếp phục vụ phát triển sản xuất theo Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Rà soát, sửa đổi bổ sung để ban hành đồng bộ các chính sách về huy động nguồn lực để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình, trong đó ưu tiên cho các vùng còn nhiều khó khăn; tăng cường phân cấp cho cấp xã, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân và cộng đồng thực hiện. Huy động các nguồn lực xã hội và cân đối đủ nguồn lực, đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Bên cạnh đó, tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục rà soát, điều chỉnh quy hoạch nông thôn mới; xây dựng sở hạ tầng thiết yếu, phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân; đẩy mạnh công tác giảm nghèo và an sinh xã hội; phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thôn; chỉ đạo các cơ sở y tế nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân; phát huy vai trò của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội trong xây dựng nông thôn mới; cải thiện và nâng cao chất lượng các dịch vụ hành chính công; bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân; giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội nông thôn, hướng tới mục tiêu hoàn thành Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Một số kinh nghiệm
Một là, công tác chỉ đạo phải sâu sát, quyết liệt, bảo đảm tiến độ thực hiện từng tiêu chí, dự án, công trình. Chủ động xây dựng các cơ chế, chính sách, nguồn lực; phân cấp, phân quyền, phân trách nhiệm từ tỉnh đến cơ sở.
Hai là, khẳng định và tạo điều kiện về cơ chế chính sách để người dân thực sự làm chủ thể, phát huy vai trò tích cực của các thôn, xóm trong xây dựng nông thôn mới là yếu tố quyết định cho sự thành công của Chương trình. Cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động và phát huy tính chủ động và sáng tạo của người dân. Nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch, thực sự quan tâm tới lợi ích thiết thực của người dân trong việc lựa chọn nội dung, quản lý, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện Chương trình nông thôn mới ở địa phương.
Ba là, thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới là quá trình vừa làm vừa học. Đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới các cấp cần phải có năng lực, trách nhiệm, tâm huyết, được cập nhật thông tin, đào tạo tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ thường xuyên.
Các địa phương cần chú trọng đào tạo cán bộ chủ chốt, có năng lực, trách nhiệm, tâm huyết, làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân, tạo ra được sự đồng thuận cao thì sẽ dễ huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc và đều đạt kết quả cao trong thực hiện các tiêu chí.
Bốn là, cần nêu cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, giám sát của Hội đồng nhân dân và sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là vai trò của người đứng đầu. Cấp ủy các cấp cần có sự lãnh đạo thường xuyên, sâu sát, quyết liệt; có kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chương trình ở mỗi địa phương, đơn vị.
Năm là, nguồn lực của Nhà nước rất quan trọng, có tác dụng như “đòn bẩy” trong xây dựng nông thôn mới. Do đó, phải có chính sách hỗ trợ phù hợp, thực hiện công khai, minh bạch, tạo được niềm tin và sự đồng thuận cao trong nhân dân để huy động được nhiều nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là vốn và đất đai. Khi triển khai thực hiện Chương trình, các cấp, các ngành cần cân đối nguồn lực bảo đảm bố trí đủ vốn, kịp thời theo cơ chế đầu tư hỗ trợ của tỉnh và của địa phương. Các sở, ngành, ủy ban nhân dân cấp huyện, kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn nhất quán, ngắn gọn, dễ thực hiện; cần phân cấp, phân quyền rõ ràng, phù hợp thực tế.
Việc huy động nội lực trong dân phải theo nhiều hình thức: đóng góp trực tiếp bằng công sức, tiền của vào các công trình; đóng góp gián tiếp bằng đầu tư vào sản xuấ kinh doanh, tạo việc làm để nâng cao thu nhập, đầu tư cải tạo, nâng cấp nhà ở, công trình vệ sinh, cải tạo vườn, ao, tường rào, cổng ngõ để có cảnh quan môi trường sạch đẹp... Việc đóng góp phải được bàn bạc dân chủ và thống nhất, có sự giám sát cộng đồng, bảo đảm công khai, minh bạch thì người dân sẽ tin tưởng và tích cực tham gia. Người dân phải thường xuyên chăm lo xây dựng, giữ gìn cơ sở vật chất, nếp sống văn minh mới có thể duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới đã đạt được.
Sáu là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình tổ chức thực hiện Chương trình; kịp thời khen thưởng, động viên những tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc, phê bình, uốn nắn những tổ chức, cá nhân làm chưa tốt nhằm khích lệ các cơ quan, đơn vị và toàn thể nhân dân tích cực thực hiện Chương trình; hằng năm tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm chỉ đạo và tổ chức thưc hiện cho những năm tiếp theo đạt hiệu quả./.
Indonesia cam kết thúc đẩy ASEAN tiến lên phía trước  (18/12/2017)
Chủ tịch nước Trần Đại Quang tiếp Chủ tịch Hạ viện Vương quốc Maroc  (18/12/2017)
Chủ tịch Quốc hội thăm và làm việc với Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội  (18/12/2017)
Phó Chủ tịch Quốc hội gặp mặt đại biểu tiêu biểu dân tộc thiểu số  (18/12/2017)
Hoạt động đối ngoại nổi bật tuần qua (từ ngày 11 đến ngày 17-12-2017)  (18/12/2017)
Việt Nam-Campuchia thúc đẩy hợp tác công nghệ thông tin kỷ nguyên số  (18/12/2017)
- Một số giải pháp đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay
- Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Thành phố Hồ Chí Minh qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
- Hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Một số vấn đề cơ bản về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền
- Việt Nam chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thúc đẩy đối ngoại quốc phòng, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng các biện pháp hòa bình
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên