TCCSĐT - Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nguồn lực to lớn là nông dân đã và đang được Đảng, Nhà nước chú trọng đầu tư, dạy nghề, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tạp chí Cộng sản đã có cuộc trao đổi với đồng chí Lều Vũ Điều, Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam về vấn đề này.

PV: Những chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về dạy nghề cho nông dân thời gian qua đã khẳng định vai trò quan trọng của nông dân đối với sự phát triển của nước ta hiện nay, đồng chí có thể cho biết cụ thể về những chủ trương, chính sách này?

PCT Lều Vũ Điều: Khi đặt mục tiêu đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, đồng thời, Đảng, Nhà nước cũng có những chủ trương, chương trình, đề án cơ bản trong việc dạy nghề, trong đó, hướng mạnh vào đối tượng nông dân. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra chủ trương phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2006 - 2010 là: “Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế động lực và cho xuất khẩu lao động” và “tạo chuyển biến căn bản về chất lượng dạy nghề, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng, linh hoạt, dạy nghề ngoài công lập, tại doanh nghiệp, tại làng nghề”.
“Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn".
 
(Quyết định số 1956 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 27-11-2009 về Phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”)
 
Thực hiện nghị quyết Đại hội X của Đảng và Nghị quyết số 26 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7, khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1956 về Phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Quan điểm của Đề án đã chỉ rõ: Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với lao động nông thôn, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Trong tình hình mới hiện nay, phải tích cực chuyển mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ đào tạo theo năng lực sẵn có của cơ sở đào tạo sang đào tạo theo nhu cầu học nghề của lao động nông thôn và yêu cầu của thị trường lao động. Gắn đào tạo nghề với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước, từng vùng, từng ngành, từng địa phương.

Đề án cũng định hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo thông qua các chương trình dạy nghề phù hợp với trình độ học vấn, điều kiện kinh tế và nhu cầu học nghề của nông dân. Đối với đội ngũ cán bộ, công chức, cũng cần tạo sự chuyển biến sâu sắc về chất lượng, hiệu quả đào tạo, bảo đảm đủ trình độ, bản lĩnh lãnh đạo, quản lý và thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.

PV: Vậy “bức tranh” chung về dạy nghề cho lao động nông thôn trong những năm tới có thể hình dung như thế nào?

PCT Lều Vũ Điều: Một trong những mục tiêu quan trọng của Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” là bình quân hằng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn. Trong đó, đào tạo, bồi dưỡng 100.000 lượt cán bộ, công chức xã; nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể:

- Giai đoạn 2009 - 2010: Dạy nghề cho khoảng 800.000 lao động nông thôn.

- Giai đoạn 2011 – 2015: Đào tạo nghề cho 5.200.000 lao động nông thôn.

- Giai đoạn 2016 - 2020: Đào tạo nghề cho 6.000.000 lao động nông thôn.
      

Giai đoạn 2016 - 2020

- Có khoảng 6.00.000 lao động nông thôn được học nghề (hơn 1.000.000 người học nghề nông nghiệp; hơn 4.000.000 người học nghề phi nông nghiệp).

- Tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề tối thiểu đạt 80%.

- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức năng lực quản lý hành chính, quản lý kinh tế - xã hội, chuyên sâu cho khoảng 500.000 lượt cán bộ, công chức xã đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

  
PV: Như vậy, trong những chủ trương, chính sách chung thì những đối tượng là người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn thuộc diện thu hồi đất canh tác, có khó khăn về kinh tế rất được quan tâm dạy nghề?

PCT Lều Vũ Điều: Xuất phát từ đánh giá: quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã ít nhiều ảnh hưởng đến một số đối tượng lao động nông thôn, nên các đề án khi xây dựng đều được chỉ đạo đặc biệt quan tâm đến các đối tượng lao động nông thôn trong độ tuổi lao động, có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề cần học. Ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng là người dân được hưởng chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người thuộc diện thu hồi đất canh tác.

Ngoài ra, các đối tượng là cán bộ chuyên trách đảng, đoàn thể chính trị - xã hội, chính quyền và công chức chuyên môn xã, cán bộ nguồn bổ sung thay thế cho cán bộ, công chức xã đến tuổi nghỉ công tác hoặc thiếu hụt do cơ học có độ tuổi phù hợp với quy hoạch cán bộ đến năm 2015 và 2020 cũng được quan tâm, chú trọng.

PV: Ông có thể cho biết những thuận lợi, khó khăn trong công tác đào tạo nghề cho nông dân?

PCT Lều Vũ Điều: Quá trình triển khai cho thấy, trong những năm đầu gặp khá nhiều khó khăn do lao động nông thôn chưa làm quen với việc học nghề, bên cạnh đó là những khó khăn về thiếu vốn triển khai nên hiệu quả chưa được như mong muốn. Những năm gần đây, công tác dạy nghề đã đạt được những kết quả khả quan hơn.

- Những thuận lợi cơ bản: Thứ nhất, nông dân Việt Nam có truyền thống cần cù, chịu khó, ham học hỏi, luôn sáng tạo trong sản xuất, nên việc tiếp cận những kiến thức mới không khó. Thứ hai, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, có những chính sách phù hợp tạo điều kiện thuận lợi để nông dân có cơ hội học nghề nâng cao kiến thức và áp dụng chung vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động và tăng thu nhập cho nông dân. Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1956 về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Đây là một đề án có quy mô lớn, đối tượng rộng và có nhiều nội dung mới phù hợp, tạo điều kiện cho mọi lứa tuổi và điều kiện khác nhau được học nghề, nhất là nông dân nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, miền núi và những nông dân ở độ tuổi trên 35 có cơ hội thuận lợi được hỗ trợ kinh phí học, tiền ăn trưa, tiền đi lại và được học ngay tại thôn, bản của mình, vừa học, vừa làm, bảo đảm ổn định cuộc sống trong thời gian học nghề.

- Những khó khăn: Khó khăn đầu tiên là yếu tố tâm lý, nhìn chung còn mặc cảm, cho rằng học nghề không có tương lai. Hầu hết các gia đình đều định hướng cho con em vào đại học. Thứ hai, trình độ dân trí không đồng đều, nhất là ở vùng sâu, vùng xa vẫn còn không ít người chưa nói được tiếng phổ thông, do đó, việc tiếp thu khoa học kỹ thuật và học nghề có nhiều trở ngại... Thứ ba, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề thiếu thốn, chưa đồng bộ. Thứ tư, đội ngũ giáo viên dạy nghề vừa yếu, vừa thiếu chưa đáp ứng được nhu cầu dạy nghề. Thứ năm, những nông dân học nghề thường là những lao động chính của gia đình, rất khó khăn trong việc bố trí thời gian từ 3 tháng trở lên, vì ảnh hưởng đến thu nhập của gia đình. Thứ sáu, vẫn còn tâm lý sợ học xong không có việc làm hoặc việc làm không ổn định, thu nhập thấp không đáp ứng được cuộc sống tối thiểu. Thứ bảy, học được nghề rồi nhưng thực tế vay vốn rất khó khăn nên không ít đối tượng không được đáp ứng nhu cầu về vốn để triển khai. Chưa kể lãi suất cho vay còn rất cao, sản xuất không có lãi. Thứ tám, đầu ra của sản phẩm không ổn định, giá cả bấp bênh... do đó, một bộ phận nông dân có tâm lý chán nản không muốn học nghề.

PV: Theo Ông, để làm tốt việc dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay, chúng ta cần làm gì?

PCT Lều Vũ Điều: Theo tôi, chúng ta cần chủ động làm tốt những công việc sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Đây là một nội dung quan trọng để nông dân hiểu rõ về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thấy rõ tầm quan trọng của việc học nghề, chỉ có học nghề mới tiếp thu được tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập cho nông dân. Học nghề là con đường để nông dân vươn lên làm giàu như ông cha ta trước đây cũng đã đúc rút: “ Ruộng bề bề không bằng có nghề trong tay”.

Hai là, đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng về nghề nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa công tác dạy nghề để thu hút các nguồn lực đầu tư vào dạy nghề cho nông dân.

Ba là, đào tạo bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý các cơ sở dạy nghề hiện có. Tăng cường đào tạo số giáo viên còn thiếu hụt, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về quy mô đào tạo dạy nghề cho nông dân hiện nay.

Bốn là, nâng cao chất lượng đào tạo nghề đáp ứng với nhu cầu thực tiễn của các doanh nghiệp và thị trường lao động trong nước và quốc tế.

Năm là, đổi mới và đa dạng các phương pháp, hình thức dạy nghề. Kết hợp giữa đào tạo nghề chính quy, tập trung với đào tạo vừa học, vừa làm và đào tạo nghề tại thôn, bản; vừa đào tạo nghề dài hạn, vừa ngắn hạn và bổ túc nghề, dạy nghề thường xuyên tạo điều kiện cho mọi đối tượng, mọi lứa tuổi đều được tham gia học nghề phù hợp với trình độ và điều kiện, hoàn cảnh của mỗi người.

Sáu là, đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải gắn với giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động; gắn với xóa đói, giảm nghèo và góp phần bảo đảm an sinh xã hội ở nông thôn; gắn với xây dựng nông thôn mới. Có chính sách đãi ngộ và tôn vinh những người có tay nghề bậc cao, các nghệ nhân, nông dân, công nhân giỏi nghề.

Bảy là, Nhà nước đã có điều chỉnh chính sách đối với giáo viên dạy nghề, tuy nhiên vẫn chưa thỏa đáng, chưa hấp dẫn giáo viên yên tâm với công việc. Vì thực tế chính sách đãi ngộ cho giáo viên thấp, công việc vất vả vì đối tượng học nghề là đối tượng đặc thù, khả năng tiếp thu chậm, nhất là đối tượng nông dân vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi. Ngoài ra, phải thường xuyên đi cơ sở dạy nghề tại chỗ. Do vậy, cần có chính sách khuyến khích giáo viên dạy nghề (nhất là những cơ sở thường xuyên dạy nghề lưu động tại các thôn bản, khu dân cư). Cải cách chế độ tiền lương cho các đối tượng tham gia giảng dạy, làm công tác quản lý, cán bộ công chức của hệ đào tạo nghề phải công bằng, bình đẳng giữa hệ đào tạo nghề của Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội với hệ đào tạo chuyên nghiệp của Bộ Giáo Dục và Đào tạo.

Quá trình thực hiện cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Thực tế thời gian qua cho thấy, nơi nào có sự phối hợp tốt thì đào tạo nghề đạt hiệu quả cao, người dân sau khi học nghề có việc làm, năng suất lao động và thu nhập được nâng lên, giảm nghèo của địa phương được bền vững.

Xin cảm ơn Ông!