Dạy nghề gắn với giải quyết việc làm cho lao động nông thôn diện thu hồi đất ở huyện Phổ Yên
TCCS - Hiện tại, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên có gần 3.000 hộ và 12.591 lao động nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi chính sách thu hồi đất dành cho phát triển công nghiệp. Đây đang là vấn đề nổi bật, đòi hỏi sự nỗ lực rất cao của huyện. Song, qua Dự án “Hỗ trợ tạo nghề mới và giải quyết việc làm cho người dân thuộc diện Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2010 - 2015” cho thấy Phổ Yên đang có những bước đi phù hợp, sáng tạo.
Vấn đề đặt ra từ thu hồi đất nông nghiệp
Huyện Phổ Yên có diện tích đất tự nhiên 257km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm 49%. Lực lượng lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp chiếm 70%; công nghiệp xây dựng giao thông chiếm 14%; thương mại, dịch vụ, du lịch chiếm 16%. Trong quy hoạch, đến năm 2020, hình thành và đưa vào sử dụng 4 cụm công nghiệp lớn do Chính phủ quy hoạch vào khu công nghiệp quốc gia với diện tích đất thuộc diện thu hồi gần 10.000ha, trong đó: Khu Công nghiệp Tây Phổ Yên quy hoạch 1.000ha, Khu Công nghiệp Nam Phổ Yên 300ha, Khu Công nghiệp Điềm Thụy 200ha, Tổ hợp công nông nghiệp đô thị dịch vụ Yên Bình quy hoạch 7.000ha. Có 5 xã nằm trong vùng quy hoạch là: Trung Thành, Thuận Thành, Tân Hương, Đồng Tiến, Hồng Tiến có nhiều diện tích thuộc diện thu hồi nhất, ngoài ra có thị trấn Đắc Sơn và các xã Minh Đức, Phúc Thuận, Tiên Phong,... nảy sinh không ít những vấn đề liên quan.
Tính đến hết năm 2010, có gần 3.000 hộ và 12.591 lao động trong độ tuổi lao động làm nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất. Dự kiến đến năm 2020, các khu công nghiệp quy hoạch đưa vào sử dụng có khoảng 14.500 hộ dân, tương đương khoảng 59.108 lao động trong độ tuổi làm nông nghiệp bị ảnh hưởng.
Giải quyết các vấn đề về lao động, việc làm
Cùng với việc đẩy mạnh công tác giải phóng mặt bằng, thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, huyện đã chủ động xây dựng Đề án “Hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề và giải quyết việc làm cho người dân thuộc diện Nhà nước thu hồi đất sản xuất trên địa bàn huyện Phổ Yên giai đoạn 2009 - 2013”. Mục tiêu đặt ra là, giải quyết hiệu quả vấn đề việc làm cho lao động thuộc diện thu hồi đất sản xuất một cách đa dạng: tạo việc làm tại chỗ, tìm việc làm tại các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, tham gia xuất khẩu lao động, bảo đảm cho mọi người dân trong vùng thu hồi đất sản xuất ổn định nơi ở, có việc làm, thu nhập khá và có cuộc sống tốt hơn trước.
Phổ Yên là huyện tiên phong của tỉnh trong việc xây dựng và triển khai đề án. Trong quá trình thực hiện, huyện gặp rất nhiều khó khăn về nhân lực, cơ chế chính sách, tổ chức,... Để khắc phục, huyện đã làm việc với lãnh đạo Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Được sự đồng ý của Tổng cục Dạy nghề, huyện phối kết hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng, trình Tổng cục Dạy nghề Dự án “Hỗ trợ tạo nghề mới và giải quyết việc làm cho người dân thuộc diện Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2010 - 2015”. Đây là dự án dạy nghề cho lao động thuộc diện thu hồi đất thí điểm của Tổng cục Dạy nghề dành cho huyện Phổ Yên, với mục tiêu tổng quát Dự án là: Tạo nghề mới cho người dân thuộc diện thu hồi đất thông qua việc dạy nghề ở các cấp trình độ: sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và truyền nghề để người dân vào làm việc tại các doanh nghiệp; hình thành các làng nghề truyền thống để tạo việc làm cho người dân thuộc diện thu hồi đất. Chủ trương này bước đầu tạo được sự đồng thuận của nhân dân, vì chỉ có thông qua dạy nghề, người dân mới thực sự có cơ hội chuyển đổi ngành nghề, có việc làm mới.
Nhiệm vụ cụ thể là đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho 8.340 học sinh và lao động nông nghiệp thuộc diện Nhà nước thu hồi đất trong vòng 6 năm (2010 - 2015), tập trung trọng tâm vào 5 xã là: Hồng Tiến, Tân Hương, Trung Thành, Thuận Thành, Đồng Tiến là những đơn vị có nhiều diện tích thu hồi.
Một số kết quả khả quan bước đầu
Triển khai thực hiện Dự án, huyện đào tạo và bố trí việc làm mới cho hàng nghìn lao động. Năm 2007, tạo việc làm mới cho 2.050/2.050 lao động (100% kế hoạch); năm 2008 là 2.500/2.500 lao động (100% kế hoạch); năm 2009 là 2.750/2.550 lao động (107,8% kế hoạch); 6 tháng đầu năm 2010 tạo việc làm mới cho 1.520/3.000 lao động (50,6% kế hoạch). Bằng nhiều hoạt động sáng tạo, huyện thực hiện công tác giải quyết việc làm trên nhiều lĩnh vực. Cụ thể là: Từ nguồn vốn quốc gia giải quyết việc làm hằng năm, (2006 - 2009), thẩm định giải ngân 350 dự án cho các hộ sản xuất, kinh doanh vay và thu hút lao động, giải quyết việc làm mới cho 830 lao động trên địa bàn. Trong 3 năm (2007 - 2009), từ nguồn kinh phí khuyến công đã hỗ trợ đào tạo nghề sơ cấp và giải quyết việc làm cho 684 lao động, chủ yếu là lao động nông thôn. Năm 2010, huyện tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, tập trung vào các ngành: may công nghiệp, sản xuất đồ mộc mỹ nghệ, mây tre đan xuất khẩu, sản xuất bao bì, chế biến chè, khai giảng 2 lớp nghề sản xuất, chế biến chè Vạn Tài cho 60 học viên.
Trong 6 tháng đầu năm 2010, các cơ sở đào tạo nghề trong huyện mở nhiều lớp tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt cho hơn 5.000 nông dân, 13 lớp đào tạo các nghề may công nghiệp, điện công nghiệp, hàn, mộc mỹ nghệ, chăn nuôi - thú y, trồng chè. Đào tạo trung cấp nghề may thiết kế thời trang, nghề hàn 5 lớp cho 210 học viên. Trong đó, nghề may thiết kế thời trang 70, nghề hàn 140. Trong 3 năm (2006 - 2009), hợp đồng đào tạo 6 nghề thủ công với 13 doanh nghiệp, và đào tạo giải quyết việc làm cho 2.358 lao động trên địa bàn huyện.
Đối với chương trình khuyến nông, khuyến lâm, năm 2009, có hàng trăm lượt nông dân được tập huấn, nâng cao năng lực, trình độ kĩ thuật. Và 6 tháng đầu năm 2010, tổ chức 74 lớp cho hơn 4.000 lượt người tham gia tập huấn kỹ thuật thâm canh cây trồng, vật nuôi, thủy sản, trồng rừng... tập trung tại các xã thuộc diện thu hồi đất sản xuất.
Các đoàn thể chính trị - xã hội: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ,... năm 2010, liên kết, tổ chức đào tạo giải quyết việc làm cho hội viên, nông dân. Sáu tháng đầu năm 2010, Hội Nông dân đào tạo 3 lớp nghề ngắn hạn chuyên ngành chăn nuôi thú y, trồng chè, thủy sản cho 125 học viên, góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao động, hướng cho nông dân chuyển đổi nghề và tìm việc làm mới. Hội Phụ nữ tổ chức 1 lớp nghề mây tre đan xuất khẩu cho 30 học viên bằng nguồn hỗ trợ của Tỉnh Hội; tuyên truyền vận động 52 hội viên vào học và làm việc tại Công ty May Tân Bình Minh - Trung Thành.
Trong công tác xuất khẩu lao động, các đơn vị chức năng trong huyện phối hợp với các công ty có uy tín, mở các hội nghị tư vấn trực tiếp tới người lao động ở một số xã, thị trấn có tiềm năng (Phúc Thuận, Minh Đức, Thành Công, Bắc Sơn, Tiên Phong). Giai đoạn 2001 - 2005, xuất khẩu 1.000 lao động và giai đoạn 2006 - 2010 là 731 lao động.
Trong 6 tháng đầu năm 2010, các doanh nghiệp trên địa bàn huyện tuyển dụng từ 200 - 500 lao động đã qua đào tạo nghề, lao động phổ thông.
Năm 2009, bằng nguồn kinh phí đào tạo nghề nông thôn của tỉnh, huyện, ủy ban nhân dân huyện phối hợp với Trường Trung cấp nghề Nam Thái Nguyên, đào tạo nghề trình độ sơ cấp cho 1.549 học viên, liên kết đào tạo 4 lớp trung cấp nghề nông - lâm với Trường Cao đẳng nghề Nông - Lâm Đông Bắc cho 176 học viên.
Kế hoạch năm 2010, toàn huyện đào tạo trình độ sơ cấp cho 1.300 chỉ tiêu; trình độ trung cấp cho 70 chỉ tiêu học may thiết kế thời trang, 30 chỉ tiêu học điện công nghiệp, 30 chỉ tiêu học hàn; liên kết, đào tạo 200 - 300 chỉ tiêu học trung cấp nghề hàn, và một số ngành nghề theo nhu cầu đào tạo của người dân; tổ chức thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.
Đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là một hướng đi đúng và có hiệu quả. Trong năm 2009, các học viên học nghề may, nghề hàn đều có việc làm. Sự phối hợp liên kết, đã tạo điều kiện cho lao động nông thôn, có tay nghề và trình độ để chuyển đổi nghề và tìm việc làm mới phù hợp với bản thân.
Qua thực tế triển khai cho thấy, ủy ban nhân dân các xã, thị trấn, các ban, ngành, đoàn thể, các phòng, ban chuyên môn cần đặc biệt quan tâm công tác tuyên truyền, tư vấn hơn nữa để cho người dân nhận thức được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ năng lực cho bản thân, có như vậy, mới tạo được việc làm ổn định, lâu dài và bền vững./.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu bảo đảm đời sống, an sinh xã hội cho người dân vùng biển đảo  (17/12/2010)
Phát động Chương trình “Chung sức vì đồng bào các huyện nghèo cả nước”  (17/12/2010)
Kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển vì mục tiêu của chiến lược biển Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước  (17/12/2010)
IMF đồng ý cho Ai-len vay số tiền 22,5 tỉ ơ-rô  (17/12/2010)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm