Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu bảo đảm đời sống, an sinh xã hội cho người dân vùng biển đảo
TCCSĐT- Biến đổi khí hậu được thể hiện qua các biểu hiện nền nhiệt độ trung bình tăng lên, nước biển dâng và gia tăng các thiên tai, triều cường, bão lụt, hạn hán gây khó khăn nghiêm trọng cho công tác dự báo khí tượng thủy văn, thời tiết, tác động tiêu cực đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội và đời sống, dân sinh, nhất là cộng đồng dân cư vùng biển đảo. Trong thời gian tới, chúng ta phải triển khai thực hiện kiên quyết, đồng bộ các nhiệm vụ của Giai đoạn II (2011-2015) thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu đang diễn ra và gây tác hại to lớn trên toàn cầu, điều này không chỉ được biết đến qua những kết quả nghiên cứu khoa học, mà thực tế còn tác động rất nghiêm trọng đến cuộc sống hằng ngày của người dân. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do con người đã phát thải quá mức các khí gây hiệu ứng nhà kính vào bầu khí quyển, phần phát thải này chủ yếu từ các nước phát triển. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, có lượng phát thải khí nhà kính thấp, nhưng theo các tổ chức khoa học trên thế giới đánh giá thì, Việt Nam lại là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu.
Các nghiên cứu khoa học dựa trên các số liệu đo đạc cho thấy, ở Việt Nam, trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng từ 0,5oC đến 0,7oC, mực nước biển đã dâng cao khoảng 20cm, ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống, an sinh vùng biển đảo. Hiện tượng El-Nino, La-Nina ngày càng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Kết quả nghiên cứu khoa học và thực tiễn cho thấy biến đổi khí hậu thực sự đã gây nên các thiên tai, đặc biệt là triều cường, bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Mặc dù các cấp chính quyền và mọi người dân Việt Nam đã luôn đề cao tinh thần cảnh giác và ứng phó quyết liệt trong công tác phòng, chống thiên tai, nhưng do tác động của biến đổi khí hậu, trong những năm qua bão lũ đã không ngừng gây nên những tổn thất nặng nề về người và tài sản đối với đất nước ta. Thực tế này, có thể thấy rõ qua các số liệu tổng hợp sau:
- Năm 2007 có 7 cơn bão, triều cường ảnh hưởng đến nước ta, bão lũ đã làm chết 462 người; làm đổ trôi gần 10.000 ngôi nhà; làm ngập úng, hư hại 173.830ha lúa; làm vỡ 19.765ha ao, hồ nuôi tôm cá; làm sạt, trôi, bồi lấp 4.834.057m3 đất công trình thủy lợi và 7.126.064m3 đất công trình giao thông;..., ước tổng thiệt hại gần 12.000 tỉ đồng.
- Năm 2008 có 10 cơn bão, triều cường ảnh hưởng đến nước ta, bão lũ đã làm chết 474 người; làm đổ trôi 5.180 ngôi nhà; làm ngập úng, hư hại 146.945ha lúa; làm vỡ 57.199ha ao, hồ nuôi tôm cá; làm sạt, trôi, bồi lấp 2.743.835m3 đất công trình thủy lợi và 4.728.829m3 đất công trình giao thông,... ước tổng thiệt hại 13.300 tỉ đồng.
- Năm 2009 có 11 cơn bão, triều cường ảnh hưởng đến nước ta, bão lũ đã làm chết 435 người; làm đổ trôi 13.354 ngôi nhà; làm ngập úng, hư hại 237.799ha lúa; làm vỡ 9.424ha ao, hồ nuôi tôm cá; làm sạt, trôi, bồi lấp 3.033.202m3 đất công trình thủy lợi và 10.321.193m3 đất công trình giao thông,... ước tổng thiệt hại là 23.300 tỉ đồng.
Những số liệu thống kê này cho thấy, ở nước ta, nhất là vùng biển đảo đã và đang bị tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu toàn cầu, gây ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển kinh tế - xã hội và cuộc sống dân sinh.
Nâng cao nhận thức của các tổ chức, doanh nghiệp, nhân dân, nhất là nhân dân vùng biển đảo ứng phó với biến đổi khí hậu
Trước những tác động hiện hữu và tiềm tàng của biến đổi khí hậu, ngày 02/02/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó quan điểm chủ đạo của Chương trình là: Ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các tổ chức, mọi người dân và cần được tiến hành với sự đồng thuận và quyết tâm cao, từ phạm vi địa phương, vùng, quốc gia đến toàn cầu. Trong đó, nâng cao nhận thức của các tổ chức, doanh nghiệp, nhân dân, nhất là nhân dân vùng biển đảo để ứng phó nhanh chóng, kịp thời và lâu dài với biến đổi khí hậu là một nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Là cơ quan thường trực Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, ngay sau khi Quyết định được ban hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức có liên quan để triển khai thực hiện Chương trình. Trong đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức nhiều hoạt động truyền thông để nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu cho các nhóm đối tượng thuộc các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, nhất là người dân vùng biển đảo trên phạm vi cả nước, nhằm tạo sự đồng thuận và quyết tâm, làm nền tảng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Chương trình đề ra.
Trong thời gian qua, mặc dù còn đang trong giai đoạn khởi động, nhưng từ việc được nâng cao nhận thức, các tổ chức, doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân vùng biển đảo đã có sự phối hợp tích cực với Bộ Tài nguyên và Môi trường trong thực hiện các nhiệm vụ của Chương trình với tinh thần trách nhiệm và ý thức cao. Điển hình như việc tham gia của mọi tầng lớp nhân dân vùng biển đảo hưởng ứng Chương trình “Giờ trái đất” với chủ đề “Tắt đèn bật sáng tương lai”. Một điển hình nữa là sự tham gia đông đảo của các bạn trẻ thanh niên vùng biển đảo vào cuộc thi “Sáng tạo Việt Nam” với nhiều sáng kiến ứng phó với biến đổi khí hậu được triển khai thí điểm tại cộng đồng biển đảo... Qua các hoạt động truyền thông, nhận thức của các tổ chức, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân vùng biển đảo về biến đổi khí hậu ngày càng được nâng cao rõ rệt.
Bên cạnh việc nâng cao nhận thức của các tổ chức, doanh nghiệp, nhân dân, nhất là nhân dân vùng biển đảo ứng phó với biến đổi khí hậu, trong năm qua Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức có liên quan, triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ của Giai đoạn I (2009-2010) thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. Một số nhiệm vụ quan trọng đã được thực hiện gồm: xây dựng, cập nhật các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong thế kỷ 21 cho Việt Nam; xây dựng khung Chương trình Khoa học và công nghệ quốc gia về biến đổi khí hậu; thực hiện việc tích hợp, lồng ghép yếu tố biến đổi khí hậu trong quá trình xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 - 2020) và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011 - 2015); đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến các lĩnh vực quản lý của từng bộ, từng ngành và từng địa phương; đề xuất các giải pháp ưu tiên nhằm ứng phó hiệu quả các tác động của biến đổi khí hậu; xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của các bộ, ngành, các địa phương giai đoạn 2010 - 2015 và Kế hoạch hành động quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu; tổ chức các diễn đàn kêu gọi vận động tài trợ quốc tế cho ứng phó với biến đổi khí hậu, đến nay đã nhận được một số cam kết tài trợ ước tính khoảng 1 tỉ đô la từ các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ, Chính phủ các nước; tổ chức các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao nhận thức về tác động của biến đổi khí hậu và các giải pháp ứng phó.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương tổ chức nhiều hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu tại các vùng biển đảo để tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp và người dân vùng biển đảo tham gia vào các hoạt động thích hợp.
Dự báo mức độ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trong những năm tới và giải pháp cấp thiết
Để có định hướng cho các bộ, ngành, địa phương đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến vùng biển đảo, xây dựng và triển khai kế hoạch hành động ứng phó, tháng 6 năm 2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công bố kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam. Theo kịch bản này, vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ ở nước ta có thể tăng 3oC so với trung bình thời kỳ 1980-1999. Mức tăng nhiệt độ dao động từ 2,1 đến 3,3oC ở các vùng khí hậu khác nhau. Mực nước biển có thể dâng 1m vào năm 2100. Mực nước biển dâng cao, kéo theo triều cường, bão lũ sẽ gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến cuộc sống dân sinh vùng biển đảo nước ta.
Theo tính toán của các chuyên gia, nếu mực nước biển dâng cao 1m, sẽ có khoảng 40 nghìn km2 đồng bằng ven biển bị ngập hằng năm, trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập hầu như hoàn toàn; khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng 10%. Đối với vùng ven biển, hải đảo hằng năm phải chịu ngập lụt nặng nề trong mùa mưa và hạn hán, xâm nhập mặn trong mùa khô. Nước biển dâng sẽ làm trầm trọng thêm đời sống dân sinh, làm tăng diện tích ngập lụt, gây khó khăn cho thoát nước, tăng xói lở bờ biển và nhiễm mặn nguồn nước ảnh hưởng to lớn đến sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt, gây rủi ro nặng nề đối với các công trình xây dựng ven biển đảo như đê biển, đường giao thông, bến cảng, các nhà máy, các đô thị và khu dân cư vùng biển đảo.
Nhiệt độ tăng, đối với sản xuất nông nghiệp, cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ có thể bị thay đổi ở một số vùng, trong đó vụ đông ở miền Bắc có thể bị rút ngắn lại hoặc thậm chí không còn vụ đông; vụ mùa kéo dài hơn. Điều đó đòi hỏi phải thay đổi kỹ thuật canh tác. Nhiệt độ tăng và tính biến động của nhiệt độ lớn hơn, kể cả các nhiệt độ cực đại và cực tiểu, cùng với biến động của các yếu tố thời tiết khác và thiên tai làm tăng khả năng phát triển sâu bệnh, dịch bệnh dẫn đến giảm năng suất và sản lượng, tăng nguy cơ và rủi ro đối với nông nghiệp và an ninh lương thực. Nhiệt độ tăng, độ ẩm cao làm gia tăng sức ép về nhiệt đối với cơ thể con người, nhất là người già và trẻ em, làm tăng bệnh tật, đặc biệt là các bệnh nhiệt đới, bệnh truyền nhiễm thông qua sự phát triển của các loài vi khuẩn, các côn trùng và vật chủ mang bệnh, chế độ dinh dưỡng và vệ sinh môi trường suy giảm. Sự gia tăng của nhiệt độ còn ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác như năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng, du lịch, thương mại,… liên quan đến chi phí gia tăng cho việc làm mát, thông gió, bảo quản và vận hành thiết bị, phương tiện, sức bền vật liệu.
Biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao sẽ làm cho các hiện tượng thời tiết cực đoan, triều cường, bão, lũ lụt, hạn hán, mưa lớn trong những năm tới càng trở nên ác liệt hơn và có thể trở thành thảm họa, gây rủi ro lớn cho phát triển kinh tế, xã hội vùng ven biển đảo hoặc xoá đi những thành quả nhiều năm của sự phát triển, trong đó có những thành quả thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Những vùng, khu vực được dự báo chịu tác động lớn nhất của thiên tai nói trên là dải ven biển Trung bộ, vùng núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.
Để ứng phó hiệu quả với những tác động trước mắt và lâu dài của biến đổi khí hậu, trong thời gian tới, chúng ta phải triển khai thực hiện kiên quyết, đồng bộ các nhiệm vụ của Giai đoạn II (2011-2015) thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong đó, các nhiệm vụ trọng tâm được đặt ra:
Một là, tiếp tục cập nhật các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng ở Việt Nam, đặc biệt là đánh giá mực nước biển dâng và tác động của nó tại các vùng biển đảo. Hoàn thành việc đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng đến các lĩnh vực, ngành và địa phương, nhất là địa phương có biển đảo.
Hai là, hoàn thành việc xây dựng và bước đầu triển khai các giải pháp ứng phó đã được lựa chọn đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương theo kế hoạch hành động. Triển khai có hiệu quả Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia về biến đổi khí hậu tại các bộ, ngành và địa phương vùng biển đảo.
Ba là, ban hành bổ sung và cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế, chính sách phục vụ ứng phó với biến đổi khí hậu. Từng bước triển khai có hiệu quả kế hoạch nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu từ trung ương đến địa phương. Chú trọng các địa phương vùng biển đảo.
Bốn là, tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác song phương và đa phương về ứng phó với biến đổi khí hậu giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế. Nâng cao được vai trò của Việt Nam trong khu vực và quốc tế về hợp tác và đàm phán về biến đổi khí hậu.
Năm là, thực hiện việc tích hợp vấn đề biến đổi khí hậu vào các chiến lược, kế hoạch phát triển giai đoạn từ nay đến năm 2020. Các bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của bộ, ngành, địa phương mình trên cơ sở Kế hoạch hành động quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. Những địa phương có vùng biển đảo cần có kế hoạch ứng phó cụ thể, sát thực, hiệu quả với hiện tượng nước biển dâng cao, triều cường để bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội và cuộc sống, an sinh của nhân dân./.
Phát động Chương trình “Chung sức vì đồng bào các huyện nghèo cả nước”  (17/12/2010)
Kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển vì mục tiêu của chiến lược biển Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước  (17/12/2010)
IMF đồng ý cho Ai-len vay số tiền 22,5 tỉ ơ-rô  (17/12/2010)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm