Sóc Trăng thực hiện tốt công tác bảo đảm an sinh xã hội
Huy động nhiều nguồn lực thực hiện an sinh xã hội
Năm 2012, dân số tỉnh Sóc Trăng khoảng 1,33 triệu người, trong đó có hơn 408 nghìn người là đồng bào dân tộc Khmer, chiếm 30,71% (Sóc Trăng hiện là tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long). Toàn tỉnh có 109 xã, phường, thị trấn; trong đó, có 39 xã đặc biệt khó khăn, 33 xã khu vực II với 98 ấp đặc biệt khó khăn, 85 xã, phường, thị trấn thuộc địa bàn khó khăn theo Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg, ngày 05-3-2007, của Thủ tướng Chính phủ. Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh (theo tiêu chí mới) năm 2011 là 24,31%, tỷ lệ hộ cận nghèo là 14,07% (trong đó, tỷ lệ hộ Khmer nghèo là 36,46%; cận nghèo: 18,02%).
Những năm qua, việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội (ASXH) luôn được Tỉnh ủy và các cấp ủy đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Các lĩnh vực xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhất là giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,... Đối tượng hưởng chính sách được mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đầu tư của Nhà nước ngày càng tăng; đời sống vật chất và tinh thần của người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc từng bước được cải thiện.
Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội để nâng cao mức sống chung của nhân dân, Đảng bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách, chương trình, dự án và vận động xã hội cùng chung tay chăm lo cho gia đình chính sách, hộ nghèo và các đối tượng khó khăn của tỉnh. Thực hiện Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg và Quyết định số 67/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, đến nay toàn tỉnh đã xây dựng 26.396/26.415 căn nhà ở cho hộ thuộc đối tượng thụ hưởng; đồng thời vận động các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh hỗ trợ cho trên 1.440 hộ nghèo, hộ gia đình chính sách xây dựng nhà ở. Thực hiện Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg về hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo vùng đồng bằng sông Cửu Long, toàn tỉnh đã giải quyết hỗ trợ đất ở cho 2.645/3.537 hộ; đất sản xuất cho 2.225/9.504 hộ; hỗ trợ đào tạo nghề cho 10.178/22.507 lao động; hỗ trợ chuyển đổi ngành, nghề, mua công cụ sản xuất cho 36.559/43.245 hộ.
Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, chỉ tính trong 2 năm 2011 - 2012, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 44.944 lao động; đào tạo nghề cho 52.695 người, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh đến cuối năm 2012 đạt 38% (trong đó, qua đào tạo nghề đạt 33,39%).
Chính sách bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, các đối tượng chính sách, học sinh, sinh viên, trẻ em dưới 6 tuổi, đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện tốt. Thực hiện kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người cận nghèo trên địa bàn tỉnh, tháng 11-2012, toàn tỉnh đã mua và cấp 171.517 thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng cận nghèo có thời hạn sử dụng 12 tháng (từ ngày 1-11-2012 đến ngày 31-10-2013), với kinh phí ngân sách địa phương hỗ trợ khoảng 30 tỷ đồng; nâng tỷ lệ toàn tỉnh có 62,84% dân số tham gia bảo hiểm y tế.
Các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục và đào tạo, văn hóa, thông tin, cung cấp điện, nước sinh hoạt, bảo đảm điều kiện đi lại... được quan tâm phát triển, nhất là ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer. Đến nay 100% số xã, phường đã có trạm y tế, trong đó 78% số xã có bác sĩ; toàn tỉnh có khoảng 264 nghìn học sinh đang theo học phổ thông, tỉnh cũng đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở và thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông; 89% số hộ nông thôn đã được sử dụng nước hợp vệ sinh; 95,3% số hộ đã được sử dụng điện lưới,...
Công tác chăm lo đời sống cho gia đình chính sách luôn được quan tâm. Trong 2 năm qua, toàn tỉnh đã vận động gần 10 tỷ đồng cho Quỹ Đền ơn đáp nghĩa, xây dựng và sửa chữa 755 căn nhà tình nghĩa; thăm và trao tặng hàng nghìn phần quà cho các đối tượng có công, gia đình chính sách. Các phong trào “Tương thân tương ái”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” do Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các đơn vị, cá nhân thực hiện đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể vào việc nâng cao ASXH và phúc lợi xã hội cho người dân, nhất là đối với các đối tượng thuộc diện gia đình chính sách, người nghèo.
Các chính sách trợ giúp xã hội, cả thường xuyên và đột xuất, được thực hiện rộng hơn về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng, như thực hiện các chính sách cấp bù học phí cho các đối tượng được miễn giảm, hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP của Chính phủ; hỗ trợ các hộ đồng bào dân tộc sinh sống tại các xã khó khăn theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia theo Quyết định số 2331/QĐ-TTg, ngày 20-12-2010, của Thủ tướng Chính phủ; thực hiện Chương trình 135 (giai đoạn II); Dự án cung cấp điện cho các hộ dân chưa có điện, chủ yếu là đồng bào Khmer (tính đến cuối tháng 10-2012, đã hoàn thành 100% khối lượng công việc xây lắp đường dây và trạm biến áp, lắp điện kế cho 17.103 hộ, đạt 84,7% tổng số hộ của dự án),...
Trong năm 2012, toàn tỉnh có 12.250 hộ thoát nghèo và 4.284 hộ nghèo phát sinh mới; tính chung số hộ nghèo toàn tỉnh còn 62.682 hộ, chiếm 20,10% tổng số hộ; tỷ lệ hộ cận nghèo còn 13,95%; riêng hộ nghèo là đồng bào dân tộc Khmer cuối năm 2012 còn 29.274 hộ, chiếm 31,31%; tỷ lệ hộ cận nghèo là 18,32%.
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận, nhưng nhìn chung, việc bảo đảm ASXH của tỉnh vẫn còn một số hạn chế. Đó là: tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn cao, thực hiện giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo cao; đời sống một bộ phận dân cư còn khó khăn; hiệu quả công tác giải quyết việc làm, dạy nghề chưa cao; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt thấp so với mức bình quân chung của cả nước; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp.
Những hạn chế trên trước hết là do hiệu lực, hiệu quả của công tác lãnh đạo, quản lý chưa cao; sự chỉ đạo, điều hành ở một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa quyết liệt; nhận thức về vai trò của ASXH và bảo đảm ASXH, phúc lợi xã hội của một số cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp và người dân chưa đúng, chưa đầy đủ; một bộ phận nhân dân còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước, thiếu ý thức tự vươn lên; chưa thực hiện tốt việc khuyến khích, tạo điều kiện để huy động mạnh mẽ sự tham gia của toàn xã hội vào công tác bảo đảm ASXH và phúc lợi xã hội; việc tổ chức thực hiện chính sách ASXH ở các cấp, nhất là cấp cơ sở còn nhiều bất cập; năng lực xây dựng chính sách ASXH còn hạn chế; sự phối hợp, lồng ghép các nguồn lực thực hiện chưa cao...
Bảo đảm an sinh xã hội để nâng cao đời sống người dân
Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2020 trở thành nước có thu nhập trung bình và hệ thống ASXH hướng tới bao phủ toàn dân. Với định hướng đó, hệ thống ASXH của nước ta hướng tới mục tiêu là cơ bản đáp ứng được nhu cầu ASXH của người dân một cách toàn diện thông qua việc Nhà nước tạo cơ chế để mọi người dân có quyền được tham gia việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phổ cập giáo dục. Nhà nước hỗ trợ cho các nhóm yếu thế, các đối tượng đặc thù, trong đó, hỗ trợ toàn bộ cho người có hoàn cảnh khó khăn tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, tiếp cận đến giáo dục, nước sạch, thông tin truyền thông và các trợ giúp xã hội khác; hỗ trợ một phần cho người thất nghiệp, người cận nghèo, người dân có mức thu nhập dưới trung bình,... để nhóm đối tượng này có điều kiện tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội.
Với quan điểm đó, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng xác định trong giai đoạn 2010 - 2015 tiếp tục “thực hiện có hiệu quả tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội”. Trong giai đoạn này, tỉnh tập trung triển khai thực hiện công tác giải quyết việc làm, dạy nghề. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình giảm nghèo, công tác xuất khẩu lao động. Đẩy mạnh các hoạt động bảo hiểm, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, có khả năng bảo vệ mọi thành viên trong xã hội. Nâng cao tỷ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm tự nguyện. Thực hiện tốt các chính sách đối với các đối tượng có công với nước, người cao tuổi; bảo trợ người tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người già không nơi nương tựa. Tiếp tục tăng cường chỉ đạo tập trung triển khai thực hiện tốt các chính sách đối với đồng bào dân tộc Khmer, đặc biệt là các chính sách về giải quyết nhà ở, đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân; tập trung đầu tư cơ sở vật chất và trang, thiết bị đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân. Phấn đấu đến năm 2020, cơ bản bảo đảm ASXH toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về giáo dục, y tế, nhà ở, điện, nước sạch, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.
Để phấn đấu đạt mục tiêu trên, trong thời gian tới, toàn Đảng bộ xác định phải tập trung triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh việc triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, trong đó tập trung chỉ đạo phát triển nông nghiệp bền vững, theo hướng thâm canh, nâng cao chất lượng, giá trị, tăng sức cạnh tranh sản phẩm hàng hóa. Thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng trong triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, giảm nghèo, giải quyết việc làm và bảo đảm ASXH, phúc lợi xã hội, phát triển nông thôn bền vững.
Triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2020 với chuẩn nghèo mới; thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án thực hiện mục tiêu giảm nghèo, trong đó tập trung đầu tư cho các xã đặc biệt khó khăn, xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số; tạo điều kiện để hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận các chương trình, chính sách hỗ trợ của Nhà nước; tổ chức đào tạo nghề, hỗ trợ khởi nghiệp để người nghèo có cơ hội về việc làm, chủ động vươn lên thoát nghèo, thu hẹp dần chênh lệch về mức sống và ASXH của tỉnh so với mức bình quân chung của vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Thực hiện các chính sách hỗ trợ hộ cận nghèo để giảm nghèo bền vững. Hằng năm, giảm tỷ lệ hộ nghèo khoảng 2% -3%.
Hai là, huy động tối đa các nguồn lực thực hiện các chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề, ưu tiên cho người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các xã đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh triển khai thực hiện toàn diện Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo hướng xã hội hóa cao hơn; phấn đấu mỗi năm đào tạo nghề cho khoảng 25 - 30 nghìn lao động; bảo đảm đến năm 2015, toàn tỉnh có tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 51%, trong đó đào tạo nghề đạt 45%.
Ba là, triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình quốc gia về việc làm, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho người lao động tìm được việc làm. Phấn đấu trong 5 năm (2011 - 2015), tạo việc làm cho khoảng 120 nghìn lao động, mỗi năm tạo việc làm cho ít nhất 23 nghìn lao động theo hướng: kết hợp chặt chẽ giữa giải quyết việc làm tại chỗ với đưa lao động đi làm việc ở các khu công nghiệp trong và ngoài tỉnh.
Bốn là, thực hiện tốt Luật Bảo hiểm xã hội, tăng cường công tác tuyên truyền các chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, thực hiện nghiêm yêu cầu buộc người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định của pháp luật. Thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế bắt buộc toàn dân; nâng cao hiệu quả sử dụng bảo hiểm y tế đối với đồng bào dân tộc, hộ nghèo; có chính sách khuyến khích người dân, nhất là người có thu nhập dưới mức trung bình tham gia bảo hiểm y tế. Tăng cường tiếp cận dịch vụ bảo hiểm y tế, chất lượng dịch vụ y tế đối với người hưởng dịch vụ bảo hiểm y tế.
Năm là, triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, dân số, gia đình và trẻ em; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nhất là ở các vùng nghèo, đặc biệt khó khăn; đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, ấm no, hạnh phúc; chỉ đạo đẩy mạnh các phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Tương thân, tương ái”, chăm sóc, giúp đỡ người có công với nước, người nghèo, người cao tuổi.
Đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em; cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tuyến cơ sở, ưu tiên vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc; khắc phục tình trạng quá tải ở bệnh viện; nâng cao y đức của đội ngũ y, bác sĩ, cán bộ ngành y tế.
Sáu là, bảo đảm thực hiện hiệu quả, kịp thời các chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng xã hội quy định tại Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP của Chính phủ.
Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội; phát triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại cộng đồng; khuyến khích sự tham gia của tư nhân trong triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão. Tổ chức thực hiện và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; kịp thời hỗ trợ người dân bị thiệt hại khi gặp rủi ro, thiên tai; mở rộng và vận động tốt sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng. Sử dụng các nguồn kinh phí của địa phương, nguồn hỗ trợ của Trung ương và các nguồn tài trợ khác đúng mục đích, đúng đối tượng, hiệu quả.
Bảy là, cải thiện điều kiện nhà ở cho người nghèo, người có thu nhập thấp; từng bước giải quyết nhu cầu về nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp và học sinh, sinh viên; phát triển quỹ nhà ở đô thị. Tiếp tục thực hiện chương trình xóa nhà tạm giai đoạn 2013 - 2020.
Tiếp tục triển khai thực hiện các dự án cấp điện cho hộ dân, các xã nông thôn mới, điện khí hóa các khu dân cư,...; cải tạo và nâng cấp hệ thống cung cấp điện, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của dân cư.
Đầu tư hoàn thiện hệ thống cấp nước, bảo đảm cung cấp đủ nước hợp vệ sinh cho các đô thị; tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2012 - 2015 và các năm tiếp theo; cải thiện cơ bản tình trạng sử dụng nước sinh hoạt của dân cư, đặc biệt là dân cư nông thôn, vùng đồng bào dân tộc, vùng thiếu nước.
Tám là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, đoàn thể và nhân dân về chính sách ưu đãi người có công và chính sách ASXH. Ðổi mới công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực ưu đãi người có công và ASXH. Triển khai pháp luật, cơ chế, chính sách có hệ thống và đồng bộ, đơn giản và hiệu quả, vừa hỗ trợ, vừa khuyến khích nỗ lực vươn lên của các đối tượng thụ hưởng, khắc phục sự ỷ lại vào Nhà nước.
Quan tâm bố trí ngân sách và đẩy mạnh xã hội hóa huy động nguồn lực thực hiện chính sách ASXH. Thực hiện đổi mới trong phân bổ nguồn lực, phân cấp cho các địa phương và đề cao trách nhiệm của địa phương trong việc quản lý, sử dụng, lồng ghép các nguồn lực để thực hiện các chính sách xã hội. Bảo đảm minh bạch, hiệu quả trong thực hiện các quy định về việc quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân.
Chín là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng thông qua việc cụ thể hóa các mục tiêu ASXH được đề ra trong các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ hằng năm của các cấp ủy đảng; nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH. Phát huy sức mạnh đoàn kết của 3 dân tộc anh em Kinh - Hoa - Khmer trên địa bàn, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội trong thực hiện các chương trình, chính sách bảo đảm ASXH. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, các cấp, các ngành trong thực hiện chính sách đối với người có công và ASXH ở từng địa phương, đơn vị./.
Kỷ niệm 46 năm ngày thành lập ASEAN tại Thành phố Hồ Chí Minh  (02/08/2013)
Triển khai thực hiện Nghị quyết 22 về hội nhập quốc tế  (02/08/2013)
Giữ an toàn thực phẩm là nhiệm vụ trọng tâm số một  (02/08/2013)
Hàn Quốc tài trợ 3,5 triệu USD chỉnh quy hoạch Huế  (02/08/2013)
Tổng thống Obama đề cử nữ Bộ trưởng Không quân  (02/08/2013)
Pháp giảm 12% số quân nhân vì "thắt lưng buộc bụng"  (02/08/2013)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên