Để thiết thực hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó

Nguyễn Minh Phong TS, Báo Nhân Dân
18:05, ngày 30-01-2013
TCCS - Các doanh nghiệp luôn  có vai  trò rất quan trọng trong nền  kinh tế nước ta. Thế nhưng do nhiều lý do khác nhau các doanh nghiệp dễ gặp những trở ngại mà có thể “gỡ bỏ” nếu  như  được hỗ trợ kịp thời.
Theo  Bộ  Kế  hoạch   và Đầu  tư, chỉ trong 9 tháng đầu  năm   2011, bên cạnh 57.000 doanh nghiệp trong nước đăng  ký thành lập mới, thì  cũng   có  khoảng 50.000 doanh nghiệp phá sản, giải  thể và  dừng  hoạt động, không   nộp  thuế. Lạm  phát cao, khủng hoảng kinh tế thế giới và những trì trệ trong sản xuất kinh doanh đã,  đang  và sẽ  còn làm  nhiều doanh nghiệp phải  lao  đao…  Trong bối cảnh  đó, để góp phần giúp các doanh nghiệp vượt qua khó  khăn, duy  trì ổn  định kinh tế vĩ mô và động lực tăng trưởng, cần chú ý một số điểm sau  đây:

Thứ  nhất, giảm  thuế và giảm  thiểu các  chi  phí,  tổn thất cho doanh  nghiệp trong quá  trình tham gia  và  rút khỏi thị trường  phải  là  một trong các khuyến nghị  cần nhấn mạnh hàng  đầu.

Bên cạnh  kết quả bước đầu cải  cách  hành chính khá  ấn tượng với việc rà soát và cắt giảm, cải  thiện  hàng ngàn quy trình quản lý và văn  bản hành chính trực tiếp liên quan đến  doanh nghiệp đang được tiến hành, cần giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và những chi  phí  sản  xuất gắn với tiêu cực và  tham nhũng trong quản lý nhà  nước nhằm giảm  chi phí  sản  xuất, giảm giá đầu  ra, và do đó giảm  áp lực lạm phát chi phí đẩy theo mục  tiêu chung của  Nghị quyết 11/NQ-CP.

Thứ  hai, thắt chặt hơn nữa đầu  tư công và điều  hòa một phần  vốn đầu tư công cho đầu tư của  các khu vực  và  mục tiêu kinh tế khác.

Trước mắt, cần làm rõ được 3 yếu tố: tiêu chí, cơ chế thực hiện,  kiểm  soát lợi ích và các chế tài gắn liền việc cắt giảm, giãn  tiến độ các dự án đầu  tư từ ngân sách  nhà  nước và tín dụng  đầu  tư nhà  nước. Đồng thời, sớm nghiên cứu chuyển một phần  vốn tiết kiệm  được hay  bị thu hồi từ đầu  tư công sai mục đích để tạo nguồn  vốn bổ sung  với lãi suất thấp, ưu đãi  cho các tổ chức  tín dụng và tài chính, có chính sách  để tăng nguồn  lực trực tiếp cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, vay  phát triển nông  nghiệp, công nghiệp phụ  trợ, nhất là hỗ trợ quá  trình tái cấu  trúc doanh nghiệp.

Thứ  ba, nghiên cứu điều chỉnh cách quản  lý lãi suất ngân  hàng  vì lợi ích toàn cục, đồng thời phát triển thị trường vốn đa dạng hơn và có tính thị trường lành mạnh hơn.

Cả lý thuyết và thực tế đều cho  thấy, lãi  suất cần  được thiết lập dựa chủ yếu vào mức lạm  phát thực tế và  chi  phí hoạt động  tối thiểu của  ngân hàng; đồng  thời, cần  phục  vụ mục tiêu quản lý dòng vốn tín dụng  xã hội, yêu cầu thúc đẩy cạnh tranh và trạng thái thanh toán của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, trong bối cảnh  nền kinh tế có tính độc quyền  và đầu cơ cao,  cần  duy  trì  và khống   chế  cả  hai  loại  trần, nhất là trần lãi suất cho vay.

Trần lãi suất huy động chủ yếu  là  để bảo  vệ các tổ chức tín dụng,  chống  cạnh  tranh lãi  suất không   lành mạnh trong bối cảnh  chưa  có sự chuẩn hóa và bình  đẳng  giữa các ngân hàng và tổ chức tín dụng  trên thị trường. Tuy nhiên, để bảo vệ các doanh nghiệp vay tín dụng  và vì lợi ích  ổn định  vĩ mô chung  thì trần lãi suất cho vay lại là cần thiết và có hiệu  quả  hơn. Trong bối cảnh  hiện  tại, việc duy  trì trần lãi  suất cho vay sẽ giúp các doanh nghiệp không  bị xử ép  và  chạy  đua “đấu giá” chịu vay lãi suất cao khi  tiếp cận  nguồn  tín dụng ngân hàng với tư cách nguồn vốn chủ  yếu  trong hoạt động của  mình, trong khi  chưa  có sự bình  đẳng  về điều  kiện  và khả  năng kinh doanh. Đồng thời, trần lãi suất cho vay cũng cần để hạn  chế các ngân hàng và tổ chức tín dụng không phát động  cuộc  chạy đua  cho vay lãi suất cao, tạo sự dồn ứ, tập trung dư nợ tín dụng vào các khu vực kinh doanh phi  sản  xuất, có tính đầu  cơ cao, gây rủi ro cho bản thân các ngân hàng và sự ổn định  của  nền  kinh tế, cũng như  gây thiếu hụt nguồn  tín dụng  cho vay phát triển và ổn định cần thiết của các khu vực kinh tế - xã  hội  khác;  ngoài ra, lại  vừa  giúp  cho  việc  sử dụng  vốn tín dụng  đúng  mục tiêu an  toàn và đạt hiệu  quả xã hội cao hơn theo yêu cầu quản lý nhà  nước nói chung.

Thực tế hiện  nay  cho thấy, việc  dỡ bỏ trần lãi  suất cho vay sớm, trong khi giữ và khống  chế  trần lãi  suất huy động thấp hơn mức lạm  phát đã khiến các ngân hàng đứng trước cả 2 sức ép với tất cả các hệ lụy tiêu cực của chúng:

Thứ  nhất, các  ngân hàng chịu sức ép cạnh tranh về sức hấp   dẫn   nhằm duy   trì ổn định nguồn vốn huy động. Do mức  lãi  suất huy  động  trần danh nghĩa thấp, không  tuân theo nguyên tắc lãi suất thực dương,  khiến các ngân hàng luôn  phải  tìm các chiêu  “lách luật, lách  trần”,  tạo sự  căng thẳng khả năng thanh khoản, buôn bán vốn lòng vòng, thiếu minh bạch và cạnh  tranh không  lành mạnh trong hoạt động  tín dụng;  tức gây  cảnh “mất  nhiều  hơn   được”  khi theo đuổi  các mục  tiêu điều hành lãi suất của Ngân  hàng Nhà  nước.

Thứ   hai,   các  ngân hàng chịu  sức  ép tìm kiếm  khách hàng đủ sức chịu  lãi vay cao, khiến dòng  vốn tín dụng ngân hàng bị dồn tụ, tập trung thái quá  bất chấp nguyên tắc an  toàn vào một số  khách hàng và  lĩnh   vực kinh doanh, nhất là cho vay phi  sản  xuất. Điều  đó khiến rủi ro tín dụng gia  tăng và chủ trương tập trung cho vay sản  xuất, nhất là cho vay tái cơ cấu,  phát triển nông nghiệp, công nghiệp phụ  trợ, cũng  như  cho vay doanh nghiệp vừa  và  nhỏ  sẽ  chỉ  là lời hiệu triệu tốt đẹp  hay  an ủi tinh thần cho những người trong cuộc mà thôi. Hơn nữa, lãi suất cho vay quá  cao đang khiến hệ thống doanh nghiệp trở  nên  nghẹt thở,  mất khả năng cạnh tranh, nguy cơ thu hẹp  sản  xuất, vỡ nợ và  giãn thợ,  tạo sức  ép  xã  hội  tăng cao đang ngày  một đậm  nét… Vì vậy, việc tái lập và duy trì trần lãi suất cho vay và triển khai các  biện  pháp đồng  bộ khác để bảo vệ các doanh nghiệp và  duy  trì năng lực, cũng   như   sự  bình ổn  lành mạnh thị trường tài chính và nền  sản  xuất xã hội đang trở nên  hiện hữu, cấp thiết hơn.

Thứ  ba, cơ chế  quản lý tỷ giá VND phải  tiếp tục và thực sự  mềm  dẻo,  linh  hoạt hơn theo tín hiệu  thị trường,  để không  lặp lại cả tình trạng chênh biệt 2 tỷ giá  kéo  dài, cũng  như  những cú  “sốc tỷ giá” lợi ít, hại nhiều.

Thứ  tư, thông tin chính sách   và  doanh   nghiệp  cần minh bạch,  cập nhật hơn, đa dạng,  nhiều chiều  hơn,  bảo đảm  dân  chủ  và  tăng thêm vai  trò phản  biện  xã hội của các hiệp hội và tổ chức xã hội.

Tăng   cường  quy  chế  phổ biến  và trách nhiệm giải trình, cũng như bảo đảm chất lượng  thông tin chính sách, phát ngôn  chính thức, thông tin của doanh nghiệp, nhất là của  doanh nghiệp nhà  nước. Cần  lưu ý rằng thông tin của Nhà  nước chậm  sẽ gây  thiệt thòi cho doanh nghiệp.

Thứ  năm,   chủ  động  thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp, ngân hàng và  đầu  tư  xã  hội theo nguyên tắc thị trường, phát  triển  theo chiều   sâu, hiện  đại, bền vững.

Trong quá  trình tái cơ cấu cần  tôn trọng, vận  dụng  đầy đủ, đúng đắn các quy luật, nguyên tắc của  kinh tế thị trường, xem nhu  cầu thị trường, cơ chế  thị  trường và hiệu quả là căn cứ chính để quyết định  việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển; đồng thời, có biện pháp tích cực ngăn ngừa  và khắc  phục những hạn  chế, mặt trái của cơ chế thị trường. Vì vậy, cần khẩn trương xây dựng  Luật Quản lý  vốn  nhà  nước  hoặc Luật Đầu tư công nhằm tạo cơ sở pháp lý cần thiết điều chỉnh các hoạt động đầu tư công.

Không nên  đóng  khung sự phối hợp chính sách  chỉ trong nội bộ các cơ quan chính phủ với các  DNNN, mà  cần  gắn kết chặt chẽ,  mở  rộng dân chủ hóa với giới doanh nghiệp và  viện,  trường và  các  tầng lớp dân  cư khác. Sử dụng chuyên gia trong nước và nước ngoài  có trình độ và khách quan nhằm đánh giá, phản biện   độc  lập   các  tác động 2 mặt của dự án đầu  tư công lớn. Làm  tốt việc này  sẽ hạn chế bớt những hoạt động đầu  tư công  gắn  với lợi ích cục bộ.

Tái cơ cấu phải  có tầm nhìn xa,  không  bị  “tư  duy  nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ, bệnh thành tích, chủ  quan duy  ý chí  hay   “lợi  ích  nhóm”   chi phối; đồng thời, cần có sự đổi mới quy trình và phương pháp thực hiện quy hoạch, đi từ yêu cầu   và  mục   tiêu  tổng  thể chung của cả nước, đến các vùng  lãnh thổ, rồi mới đến từng địa  phương, cơ sở. Đặc biệt,  cần   khẩn  trương  xác định  các tiêu chí và thứ tự ưu tiên làm căn cứ để tái cấu trúc tổ chức và quản lý DNNN, khắc  phục  tình trạng trì trệ hoặc lạm dụng,  trục lợi, thậm chí tái cấu trúc kiểu  “râu ông nọ  cắm  cằm  bà  kia”  trong phân công chủ quản và “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong  chỉ  đạo,  điều   hành… Cần  xây  dựng  bộ  tiêu thức phù  hợp và chuẩn hóa để tạo căn cứ lựa chọn và thông qua các  dự  án  theo lĩnh  vực  và yêu cầu đầu tư, mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường, cũng như các lợi ích quốc gia và địa phương, ngành, cụ thể và dài hạn. Phân biệt 2  loại  mục tiêu và  2 loại  tiêu chí  đánh giá  hiệu quả  đầu  tư công  - đầu  tư vì lợi nhuận và đầu  tư phi  lợi nhuận, khắc  phục  sự nhập nhằng giữa  nguồn  vốn hoạt động vì lợi nhuận với nguồn  vốn hoạt động  phi  lợi nhuận, cũng  như  giữa  trách nhiệm xã  hội  của    các  tập đoàn  kinh tế nhà  nước đối với ổn định  kinh tế vĩ mô với nhiệm vụ  sản  xuất kinh doanh - điều  dễ  dẫn  đến đầu tư của tập đoàn  vừa   bị phân tán, vừa dễ bị lạm dụng,  kém hiệu  quả.

Đặc biệt, kiên quyết chấm dứt tình trạng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải ra ngoài ngành,  lĩnh   vực  sản   xuất, kinh doanh  chính (Hội  nghị Trung ương  3 yêu  cầu  hoàn thành trước năm  2015) và tập trung phát triển DNNN trong những ngành, lĩnh  vực quan trọng có ý nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu thuộc  các ngành kinh tế, kỹ thuật liên  quan đến  kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ  công,  ổn  định  kinh tế vĩ mô. Nghiên cứu chỉnh sửa giảm  tỷ trọng DNNN  xuống dưới 10%, thậm chí bãi bỏ sớm quy định hiện nay về cho phép DNNN được phép đầu tư “trái ngành” tối đa 30% tổng nguồn vốn đầu  tư, vào các lĩnh  vực ngân hàng, bảo hiểm,  chứng khoán, mức vốn đầu  tư công ty nhà  nước không  được vượt quá  20%  vốn  điều  lệ  của  tổ chức nhận góp vốn, nhưng mức vốn góp của  công ty mẹ và công ty con trong tổng công ty, tập đoàn  không  vượt quá mức  30% vốn  điều  lệ của  tổ chức nhận góp vốn…

Về cơ chế  quản lý DNNN, cần thực hiện  quyền  và trách nhiệm của  chủ  sở  hữu  nhà nước  đối  với vốn  và  tài sản nhà  nước  tại các  doanh nghiệp, bảo đảm  công khai, minh bạch  về tài chính. Đổi mới quản trị và  cơ chế  hoạt động  của  DNNN  theo hướng chuyển sang  tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, cạnh tranh bình  đẳng  trên thị trường đối với những hoạt động kinh doanh vị lợi nhuận… Đặc biệt, trong phân cấp quản lý DNNN, cần thống nhất và rõ ràng, gắn  với chịu trách nhiệm liên đới của từng tổ chức,  cá nhân. Công  khai các thông tin, quy  trình, thủ tục, danh mục dự án,  tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm  tra, kiểm  toán các dự án đầu  tư của DNNN.

Thứ sáu, tăng phát hiện  và chế tài những vi phạm về giá cả, đầu cơ và lũng đoạn, chống lobby  mang tính chất ngành và doanh  nghiệp.

Cần   có  cơ  chế  mới  ngăn chặn  kiên  quyết hơn và hiệu quả  hơn  những biểu  hiện  và hoạt động “lobby” chính sách và sự chi phối chính sách,  kế hoạch  và hoạt động đầu  tư vì lợi ích nhóm, ngành, cục bộ và lối tư duy  nhiệm kỳ,  không phải   vì  lợi ích  chung và  sự phát triển quốc gia bởi khi  có sự “lobby” ngành nào đó sẽ tạo ra sự  lệch  hướng  hay  thiếu thống nhất về chính sách  của Chính phủ  và gây thiệt hại chung cho xã hội.

Thực  hiện  nghiêm cho các khu  vực doanh nghiệp tham gia  rộng rãi, bình  đẳng  việc đấu thầu thực chất các dự án, đặc  biệt là được tài trợ bằng các nguồn  lực công, cũng như các hoạt động mua  sắm chi từ nguồn  đầu tư công, chứ không phải  chỉ khép  kín  trong khu vực nhà  nước với nhau.

Trong vấn đề kiểm  soát thị trường, chú  ý đến  liều  lượng, thời lượng,  chính sách  bổ trợ khi   xây   dựng   và   thực  thi những giải  pháp đã,  đang  và sẽ triển khai. Bất kỳ chính sách  nào cũng có hai  mặt của nó, vì vậy phải  lưu ý dự báo trước, chuẩn bị trước phương án, xác định   cơ chế phản hồi, phản biện,  tiếp thu và không ngừng   hoàn   chỉnh, để  phát huy  mặt tích cực, giảm  tiêu cực của  các chính sách  được lựa chọn.

Coi trọng hơn nữa  việc phòng,  chống tham nhũng, vì tham nhũng liên quan đến lạm  phát, làm  tăng chi  phí của  doanh nghiệp (trong lạm phát,  mọi  người   càng   cảm nhận được tính cấp thiết của điều  này),  làm  lỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, làm lệch  các nguồn  lực cần  thiết vào những nơi cần thiết, giảm hiệu  quả  đầu  tư công,  giảm hiệu quả của chính sách, tăng áp  lực của  lạm  phát và phát triển thiếu bền  vững.  Muốn vậy,  Nhà  nước cần  xây  dựng một cơ chế phòng, chống tham nhũng thực chất hơn, dân chủ hơn,  kiên  quyết và hiệu  quả hơn, coi đây là một cơ hội mới tích cực mà  lạm  phát tạo ra nên được tận dụng./.