TCCSĐT - Từ ngày 25 đến 31-10, tại Nga, đã diễn ra Tuần lễ Năng lượng quốc tế với chủ đề "Mở rộng hợp tác năng lượng trong điều kiện gia tăng cạnh tranh toàn cầu" đã khai mạc tại Mát-xcơ-va (Nga). Đây là tín hiệu để các nhà sản xuất sớm phục hồi sản lượng, tránh xảy ra tình trạng khan hiếm năng lượng trong thời gian tới.

1. Khai mạc Tuần lễ Năng lượng quốc tế ở Mát-xcơ-va

Tuần lễ Năng lượng quốc tế khai mạc ở Mát-xcơ-va

Từ ngày 25 đến 31-10, tại Nga, đã diễn ra Tuần lễ Năng lượng quốc tế với chủ đề "Mở rộng hợp tác năng lượng trong điều kiện gia tăng cạnh tranh toàn cầu" đã khai mạc tại Mát-xcơ-va (Nga). Đây là tín hiệu để các nhà sản xuất sớm phục hồi sản lượng, tránh xảy ra tình trạng khan hiếm năng lượng trong thời gian tới. Hiện tại, tập đoàn khí đốt khổng lồ Ga-prom (Gazprom) của Nga đang có kế hoạch đưa mức khai thác trở lại trước thời kỳ khủng hoảng vào năm 2013. Ngoài thúc đẩy các dự án quốc tế Dòng chảy phương Bắc, Dòng chảy phương Nam, tuyến đường ống Đông Xi-bê-ri-a - Thái Bình Dương... nhằm bảo đảm cung cấp năng lượng từ Nga sang châu Âu, châu Á, Mỹ.., tại vùng Viễn Đông của Nga còn đang hình thành một trung tâm năng lượng khu vực - một dạng "tấm đệm" năng lượng an toàn dành cho những "con rồng" lớn và nhỏ của châu Á, những nước đầu tiên thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong khuôn khổ Tuần lễ Năng lượng quốc tế cũng đã diễn ra nhiều cuộc hội thảo, buổi nói chuyện chuyên đề tập trung vào vị thế các nhà sản xuất năng lượng trong bối cảnh các nước đang nỗ lực vực dậy sau khủng hoảng kinh tế; vấn đề đảm bảo nhu cầu năng lượng cho các nền kinh tế phát triển nhanh; giới thiệu các đề án xây dựng và thiết kế đường ống dẫn dầu và khí đốt... Hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, cũng như những khoản nợ quốc gia khổng lồ ở châu Âu và một số nước công nghiệp... là nguyên nhân chính làm giảm nhu cầu khí đốt nói riêng và năng lượng nói chung.

2. Liên hợp quốc kêu gọi bảo vệ quyền của người lao động di cư trên khắp thế giới

Ngày 25-10-2010, Liên hợp quốc đã ra báo cáo kêu gọi cộng đồng quốc tế hành động để bảo vệ quyền của 200 triệu người lao động di cư trên khắp thế giới. Báo cáo nêu rõ phần lớn những đối tượng này đang phải chịu đựng các hình thức bạo hành về thể chất và tinh thần, bị quấy rối tình dục, giam cầm và cưỡng bức. Phát biểu tại phiên họp toàn thể Đại Hội đồng Liên hợp quốc khóa 65, bà Ra-ken Rôn-ních (Raquel Rolnik), báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về vấn đề nhà ở, cho biết người lao động di cư phải sống trong các công-te-nơ hoặc các căn lều xây tạm không điện nước và các dịch vụ tối thiểu khác, không được tiếp cận nhà ở công cộng do bị phân biệt đối xử tại hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, ông Áp-đe-na-mít En Giam-ri (Abdelhamid El Jamri), Chủ tịch Ủy ban bảo vệ quyền của người lao động di cư và gia đình họ, nhấn mạnh, việc chặn lưu thông tự do lao động di cư không giúp làm giảm số người di cư mà còn làm tăng khả năng dễ bị tổn thương của lao động di cư trước sự phân biệt đối xử và các loại tội phạm như buôn người và các hình thức buôn lậu khác. Công ước Liên hợp quốc về bảo vệ người lao động di cư và gia đình họ đã được 43 nước phê chuẩn nhưng chưa nước nào thực hiện Công ước này mà chỉ mới xem xét khía cạnh kinh tế của vấn đề di cư nhằm tiến tới một đường lối tôn trọng hơn đối với quyền con người của lao động di cư.

3. Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua với đa số áp đảo nghị quyết yêu cầu Mỹ bãi bỏ cấm vận chống Cu-ba

Ngày 26-10-2010, Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 65 đã thông qua nghị quyết yêu cầu Mỹ bãi bỏ cấm vận kinh tế, thương mại và tài chính chống Cu-ba kéo dài suốt nửa thế kỷ qua với đa số áp đảo gồm 187 phiếu thuận, 2 phiếu chống và 3 phiếu trắng. Đây là năm thứ 19 liên tiếp, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua nghị quyết này với số phiếu ủng hộ năm sau cao hơn năm trước. I-xra-en là nước duy nhất ủng hộ Mỹ tiếp tục áp đặt lệnh cấm vận này. Bộ trưởng Ngoại giao Cu-ba Bru-nô Rô-đri-ghết (Bruno Rodríguez) cho biết, chính sách bao vây cấm vận của Mỹ chống Cu-ba đã gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt các lĩnh vực nhạy cảm như y tế và lương thực. Theo thống kê của Chính phủ Cu-ba, thiệt hại kinh tế do cấm vận của Mỹ gây ra từ năm 1962 tới nay lên đến 751 tỉ USD. Phát biểu đại diện cho Phong trào Không liên kết, Đại sứ Ai Cập Áp-đe-la-dít (Abdelaziz) nói, “tại sao một nước lại có quyền cản trở tự do thương mại của một nước láng giềng trong khi liên tục kêu gọi các quốc gia khác phải tự do thương mại? Tại sao một nước có thể áp đặt những hạn chế về quyền đi lại của người dân khi nước này ủng hộ mạnh mẽ việc tự do đi lại? Phong trào Không liên kết rất bất bình bởi sự mâu thuẫn này và tin rằng việc làm sai trái đó phải được sửa chữa kịp thời”.

4. Quỹ Dân số Liên hợp quốc đề cao việc trao quyền cho phụ nữ

Ngày 27-10-2010, tại Diễn đàn năm 2010 của các nghị sĩ quốc hội vì hành động toàn cầu tổ chức tại thành phố I-xtan-bun (Thổ Nhĩ Kỳ), Giám đốc chấp hành Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), bà Thô-ray-a A-mét Ô-bết (Thoraya Ahmed Obaid) nhấn mạnh, trao quyền cho phụ nữ đồng nghĩa với xây dựng và tăng cường an ninh con người trên toàn cầu. Phụ nữ là người tạo ra kết cấu xã hội và đảm bảo sự phát triển bền vững của các cộng đồng. Cuộc đấu tranh vì các quyền cơ bản của phụ nữ trong thế kỷ XXI là cuộc đấu tranh vì bình đẳng và quyền của phụ nữ. Những số liệu được Liên hợp quốc công bố mới đây cho thấy, trên toàn cầu có 1.000 phụ nữ tử vong mỗi ngày do thai nghén và sinh đẻ; 215 triệu phụ nữ không được đáp ứng nhu cầu kế hoạch hóa gia đình; 2,7 triệu phụ nữ nhiễm HIV/AIDS mỗi năm, 60 triệu trẻ em gái không được hưởng thụ giáo dục tiểu học... Thực tế này đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải hành động ngay lập tức để thúc đẩy thực hiện các cam kết về giáo dục và sức khoẻ sinh sản của phụ nữ, trước hết cần thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng trong nước và giữa các nước. Bà kêu gọi thế giới cùng hành động tập thể để tạo hy vọng trong tương lai. Trao quyền cho phụ nữ phải trở thành thực tế trong đời sống xã hội hàng ngày, bảo vệ cuộc sống của phụ nữ khi sinh nở và mở ra cơ hội hưởng thụ cuộc sống mới.

5. IMF nhận định về triển vọng kinh tế toàn cầu và các thách thức chính sách
 
Ngày 28-10-2010, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã đưa ra những đánh giá về triển vọng của nền kinh tế toàn cầu. Theo IMF, kinh tế toàn cầu tăng trưởng mạnh hơn dự kiến nhưng chậm lại trong nửa sau của năm 2010 và nửa đầu của năm 2011 do tiến trình phục hồi vẫn mong manh và không đồng đều. Nguy cơ tái khủng hoảng của nền kinh tế thế giới vẫn lớn. Mặc dù căng thẳng trong khu vực tài chính đã giảm bớt nhưng các thị trường vẫn hết sức nhạy cảm với các nguy cơ nợ công và khu vực ngân hàng. Các nền kinh tế mới nổi trong nhóm G20 vẫn dẫn đầu thế giới về phục hồi kinh tế nhờ tăng nhu cầu trong nước và phục hồi thương mại quốc tế nhưng đã bắt đầu chậm lại để hướng tới tăng trưởng bền vững hơn. Tái cân bằng nhu cầu toàn cầu vẫn là yêu cầu cấp thiết để tăng trưởng cân bằng, mạnh mẽ và bền vững, đặc biệt ở các nền kinh tế phát triển. Các nhà kinh tế IMF nhấn mạnh, trong khi tiếp tục hỗ trợ phục hồi kinh tế, các ưu tiên chính sách của các nước G20 cần tập trung vào các nhu cầu trung hạn nhằm tái cân bằng nhu cầu toàn cầu. Các nền kinh tế phát triển cần điều chỉnh thận trọng và cải tổ các khu vực tài chính, bình thường hóa các điều kiện tín dụng và thúc đẩy tái cân bằng trong nước nhằm làm giảm sức ép đối với lập trường chính sách tiền tệ đòi hỏi phải điều chỉnh lớn ở các nền kinh tế này

6. Hội nghị Thượng đỉnh Liên minh châu Âu tại Brúc-xen

Trong hai ngày 28 và 29-10-2010, tại Brúc-xen, thủ đô Vương quốc Bỉ, đã diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh Liên minh châu Âu (EU) với sự tham dự của các nguyên thủ quốc gia và những người đứng đầu chính phủ của 27 nước thành viên. Những vấn đề được đặt lên hàng đầu trong chương trình nghị sự của Hội nghị này là: chính sách kinh tế; hội nghị Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20); biến đổi khí hậu và mối quan hệ với Mỹ. Hội nghị đã kết thúc bằng một thỏa hiệp lịch sử về cải cách rộng rãi hệ thống quản lý kinh tế châu Âu và sửa đổi "có giới hạn" Hiệp ước Li-xbon (Lisbon). Các biện pháp đặc biệt quan trọng để chống khủng hoảng, các nguyên tắc cơ bản tăng cường quản lý kinh tế tại châu Âu được Hội nghị thông qua tập trung vào 3 hướng: Thứ nhất, thành lập quỹ ổn định thường xuyên khu vực đồng ơ-rô, theo đó, EU có thể lập một quỹ cứu trợ lâu dài để có thể nhanh chóng viện trợ cho các nước thành viên bị khủng hoảng tài chính. Thứ hai, áp dụng cơ chế mới theo dõi các xu hướng khủng hoảng trong nền kinh tế châu Âu. Thứ ba, áp dụng các biện pháp chống vi phạm quy định ngân sách EU. Cũng tại Hội nghị này, lãnh đạo các nước EU kêu gọi nỗ lực tránh một cuộc chiến tiền tệ trong nền kinh tế thế giới đồng thời ủng hộ thoả thuận cải cách Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đạt được tại Hội nghị Bộ trưởng G20 hôm 23-10.

7. ILO thông qua luật điều kiện lao động nông nghiệp

Ngày 29-10-2010, các chuyên gia đại diện các chính phủ, giới chủ và giới lao động trong nông nghiệp đã thông qua dự luật mới của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đảm bảo an toàn và sức khỏe trong nông nghiệp nhằm cải thiện điều kiện làm việc cho hơn 1 tỉ lao động nông nghiệp trên toàn cầu. Mục tiêu của dự luật mới này là thúc đẩy văn hóa nghề nghiệp mang tính phòng ngừa về an toàn và sức khoẻ (OSH) trong nông nghiệp. ILO nhấn mạnh lao động nông nghiệp chiếm hơn 1/3 tổng số lao động toàn cầu, chỉ đứng sau lao động dịch vụ nhưng là lĩnh vực có số lao động nữ đông nhất, đặc biệt ở châu Á và châu Phi. Lao động nông nghiệp cũng chiếm tới 70% lao động trẻ em trên toàn cầu. Dự luật mới bổ sung cho Công ước của ILO về an toàn và sức khỏe trong nông nghiệp và cung cấp các hướng dẫn chi tiết hơn về ứng dụng Công ước trong thực tiễn. Dự luật cũng nhằm nâng cao nhận thức về các rủi ro và các nguy cơ trong sản xuất nông nghiệp, tăng cường quản lý hiệu quả và kiểm soát các nguy cơ và rủi ro này, ngăn ngừa tai nạn và bệnh nghề nghiệp, cải thiện môi trường làm việc trên thực tế, khuyến khích các chính phủ, giới chủ, người lao động và các đối tác có liên quan hợp tác để ngăn chặn tai nạn và bệnh tật, thúc đẩy thái độ và cách hành xử tích cực hơn đối với OSH trong nông nghiệp.

8. Liên hợp quốc thông qua 16 nghị quyết về giải trừ quân bị

Ngày 29-10-2010, trong phiên hợp toàn thế, Ủy ban giải trừ quân bị và an ninh quốc tế Đại Hội đồng Liên hợp quốc khóa 65 đã thông qua 16 nghị quyết về giải trừ quân bị khu vực, tác động của việc sử dụng u-ra-ni đã làm nghèo, củng cố hòa bình thông qua giải trừ quân bị thực sự và kiểm soát vũ khí thông thường... trong đó nhấn mạnh, các nước có tiềm lực quân sự vừa và lớn phải có trách nhiệm đặc biệt trong việc thúc đẩy các hiệp định kiểm soát vũ khí thông thường ở các tiểu khu vực và khu vực. Ủy ban Giải trừ quân bị và an ninh quốc tế cũng thông qua với đa số áp đảo các nghị quyết về thúc đẩy chủ nghĩa đa phương trong giải trừ quân bị và không phổ biến vũ khí hạt nhân; nghị quyết về tác động của việc sử dụng vũ khí và đạn dược có chứa u-ra-ni đã được làm nghèo, các nghị quyết về an ninh ở khu vực Địa Trung Hải; quan hệ giữa giải trừ quân bị và phát triển; phát triển công nghệ thông tin và viễn thông. Đồng thời, củng cố hòa bình thông qua các biện pháp thực tiễn giải trừ quân bị, không phổ biến hạt nhân và kiểm soát vũ khí; giáo dục về giải trừ quân bị và không phổ biến vũ khí; tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường trong dự thảo và thực hiện các hiệp định giải trừ quân bị và kiểm soát vũ khí; chương trình thông tin giải trừ quân bị của Liên hợp quốc, vai trò của khoa học công nghệ trong bối cảnh an ninh quốc tế và giải trừ quân bị; duy trì an ninh quốc tế - quan hệ láng giềng tốt, ổn định và phát triển ở Đông Nam Âu.

9. Hội nghị cấp cao ASEAN 17 và các hội nghị liên quan

Từ ngày 28 đến ngày 30-10-2010, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 17 và các hội nghị liên quan, trong đó có Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS). Tại Hội nghị lần này, các nhà lãnh đạo một lần nữa khẳng định quyết tâm đẩy mạnh các hành động cụ thể để hiện thực hóa mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN và đã nhất trí tiến hành nhiều biện pháp đồng bộ để tạo ra sự chuyển biến thực sự trong việc thực hiện đúng tiến độ và hiệu quả các chương trình/kế hoạch xây dựng Cộng đồng, theo các quy định pháp lý của Hiến chương ASEAN. Các nhà lãnh đạo đã thông qua Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN nhằm tăng cường kết nối về hạ tầng, thể chế và người dân ASEAN; thông qua hai văn kiện quan trọng khác của ASEAN là: Tuyên bố ASEAN về phát triển nguồn nhân lực và các kỹ năng cho phục hồi kinh tế và tăng trưởng bền vững; Tuyên bố về Tăng cường phúc lợi và phát triển của phụ nữ và trẻ em ASEAN. Các nhà lãnh đạo thống nhất cao về chủ trương và các biện pháp đẩy mạnh quan hệ đối ngoại của ASEAN cũng như bảo đảm vai trò trung tâm của Hiệp hội trong một cấu trúc khu vực đang định hình. Các đối tác tiếp tục khẳng định coi trọng quan hệ và mong muốn tăng cường hơn nữa hợp tác toàn diện với ASEAN, ủng hộ ASEAN xây dựng Cộng đồng và giữ vai trò trung tâm ở khu vực. Cùng với quan hệ đối tác chiến lược mà ASEAN đã có với Trung Quốc, Nhật Bản, các Nhà Lãnh đạo đã quyết định nâng cấp quan hệ ASEAN - Hàn Quốc lên thành đối tác chiến lược và nâng cấp quan hệ ASEAN - Hoa Kỳ lên tầm chiến lược. Các Nhà Lãnh đạo cũng đã quyết định mở rộng Cấp cao Đông Á để Nga và Hoa Kỳ tham gia trên cơ sở ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN và tôn trọng các mục tiêu, nguyên tắc, thể thức và ưu tiên của Cấp cao Đông Á đã được thống nhất từ trước.

10. Hội nghị COP10 thông qua Nghị định thư Na-gô-y-a và Mục tiêu Ai-chi

Ngay 30-10-2010, Hội nghị lần thứ 10 các nước ký hiệp ước về đa dạng sinh học (COP10) tại thành phố Na-gô-y-a (Nhật Bản) đã bế mạc sau khi thông qua “Nghị định thư Na-gô-y-a” và “Mục tiêu Ai-chi”. Mỗi bên sẽ áp dụng các biện pháp pháp lý cần thiết và kiểm tra để đảm bảo các doanh nghiệp và viện nghiên cứu không sử dụng các nguồn gien khi chưa có sự ủy quyền. “Mục tiêu Ai-chi” yêu cầu hành động khẩn cấp, hiệu quả đến năm 2020 để ngăn chặn tổn thất đa dạng sinh học với mục tiêu bảo vệ hệ sinh thái, đảm bảo cuộc sống phong phú của loài người. Để đạt được mục tiêu chung này, “Mục tiêu Aichi” quy định cần bãi bỏ các khoản trợ cấp gây ảnh hưởng xấu đến tính đa dạng sinh học; các chính phủ và doanh nghiệp cần phải hoạt động trong phạm vi mà môi trường tự nhiên có thể phục hồi; giảm tốc độ tổn thất của các khu vực sinh sống của động thực vật, trong đó có rừng, xuống gần mức 0, ít nhất cũng giảm một nửa; bảo tồn có hiệu quả ít nhất 17% diện tích đất liền và 10% diện. Theo nghị định thư Na-gô-y-a, các khoản lợi nhuận được chia sẻ dựa trên các thỏa thuận giữa các bên liên quan, việc tiếp cận các nguồn gien phải được tiến hành sau khi thông báo trước cho nước có nguồn gien đó và các nước thành viên của COP10 sẽ cân nhắc các cơ cấu khung cho việc chia sẻ lợi nhuận đa phương.

11. Hội nghị Bộ trưởng viễn thông và thông tin APEC

Bộ trưởng Nội vụ và Thông tin Nhật Bản
Y-ô-shi-hi-rô Ka-ta-y-a-ma (Yoshihiro Katayama)
 tại Hội nghị Bộ trưởng viễn thông và thông tin APEC. a

Ngày 30-10-2010, Hội nghị các Bộ trưởng Viễn thông và Thông tin của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) đã khai mạc tại thành phố Na-gô, tỉnh Ô-ki-na-oa (Nhật Bản). Trong hai ngày hội nghị, đại diện của 21 quốc gia thành viên dự kiến đã thông qua tuyên bố chung cấp bộ trưởng để trình lên Hội nghị thượng đỉnh APEC tại Y-ô-kô-ha-ma (Yokohama) vào giữa tháng 11 tới. Các đại biểu tham dự hội nghị cũng đã thảo luận các cách thức thúc đẩy sử dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực giáo dục, chăm sóc y tế, bảo vệ môi trường và đối phó với thiên tai. Tại hội nghị này, APEC đánh giá đã gần hoàn tất mục tiêu khuyến khích người dân tại 21 nền kinh tế thành viên trong năm 2010 có thể truy cập Internet tại nhà, tại các quán cà phê Internet và những nơi khác. Hội nghị cũng sẽ đặt ra mục tiêu mới là thiết lập mạng lưới băng thông rộng thế hệ mới trong khu vực với hy vọng thúc đẩy việc sử dụng công nghệ không dây và các mạng lưới khác nhằm đảm bảo truy cập Internet tốc độ cao. Ngoài ra, các bộ trưởng APEC cũng bàn thảo các cách thức hợp tác nhằm đối phó với khủng bố mạng và chặn những thông tin có hại trên mạng, như khiêu dâm trẻ em và thư rác. Theo Hiệp hội Viễn thông quốc tế (ICU), cơ quan của Liên hợp quốc về ICT, hiện giữa các thành viên APEC vẫn còn có sự chênh lệch khá xa về công nghệ số. Tỷ lệ lắp đặt băng thông rộng mới đạt 0,7% tại In-đô-nê-xi-a và 2,8% tại Pê-ru trong khi con số này ở Mỹ đạt 27,1% và ở Nhật Bản là 24,9%./.

*** Những sự kiện quốc tế đáng chú ý trong tuần (từ ngày 18-10 đến ngày 24-10-2010)