Đắk Lắk phát triển kinh tế gắn với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc trong bối cảnh hội nhập

Niê Thuật Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk
17:41, ngày 28-03-2012
TCCS - Thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bước vào thời kỳ mới, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XV (nhiệm kỳ 2010 - 2015) xác định: “Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, hội nhập và cạnh tranh hiệu quả… Bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp về văn hóa truyền thống, cách mạng, di tích lịch sử, di tích văn hóa, làng văn hóa các dân tộc, buôn làng cổ tiêu biểu, sử thi và không gian văn hóa cồng chiêng…”. Để thực hiện mục tiêu trên, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh không ngừng phấn đấu giành thắng lợi  toàn diện trên tất  cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Nằm ở vị trí trung tâm cao nguyên Nam Trung Bộ, có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng không chỉ đối với Tây Nguyên mà đối với cả nước, hiện nay, dân số của Đắk Lắk có gần 1,8 triệu người gồm cộng đồng 41 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm khoảng 30%. Quá trình cộng cư, giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa các dân tộc anh em đã tạo nên một “bức tranh” văn hóa nhiều màu sắc, phong phú, đa dạng. Đặc biệt, văn hóa cồng chiêng là sự độc đáo, đặc sắc, là tài sản vô giá đã được giữ gìn, lưu truyền qua bao thế hệ. Ngày 25-11-2005, Tổ chức UNESCO công nhận “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”. Đó là niềm tự hào và vinh dự lớn của đồng bào các dân tộc Đắk Lắk, Tây Nguyên nói riêng và nền văn hóa Việt Nam nói chung.

Với nét đặc trưng, giàu bản sắc về văn hóa, Đắk Lắk còn là vùng đất có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội. Sau 25 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, kinh tế - xã hội của tỉnh đã đạt được những thành tựu quan trọng, phát triển khá toàn diện. Kinh tế tăng trưởng ở mức khá cao và liên tục. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm 2005 - 2010 đạt 12,1%/năm. Quy mô nền kinh tế tăng mạnh, năm 2010 tổng GDP đạt 12.810 tỉ đồng, gấp 1,7 lần so với năm 2005. Thu cân đối ngân sách trên địa bàn tăng nhanh, bình quân đạt 23,94%/năm; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 10% (theo tiêu chí cũ). Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm đạt khoảng 29.436 tỉ đồng, bằng 31,8% GDP, tăng 28,46% so với kế hoạch. Các chương trình, đề án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ngày càng có trọng tâm, trọng điểm hơn, đã góp phần làm thay đổi diện mạo đô thị và nông thôn. Riêng năm 2011, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 13%; thu ngân sách trên 3.500 tỉ đồng; bình quân thu nhập đầu người đạt trên 21,5 triệu đồng/năm.

Bên cạnh việc chú trọng chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, công tác bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc trong tỉnh luôn được Đảng bộ quan tâm đặc biệt. Quán triệt và nhận thức sâu sắc các quan điểm cơ bản của Đảng về nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk xác định văn hóa là “nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2005 - 2010” đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ: “Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội”. Để thực hiện mục tiêu trên, Đảng bộ, chính quyền tỉnh đã đề ra những chủ trương, chính sách, chương trình, giải pháp về công tác bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh và đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ.

Sau khi được UNESCO công nhận “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”, công tác bảo tồn đã được quan tâm chú trọng. Tỉnh đã xây dựng Đề án: “Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Đắk Lắk (giai đoạn 2007 - 2010)” và đã tổ chức, thực hiện có hiệu quả. Việc tổ chức văn hóa lễ hội các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh được duy trì đều đặn. Phối hợp, tổ chức nhiều đợt điều tra, khảo sát, thống kê các nghi lễ - lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Một số nghi lễ - lễ hội đã được phục hồi, thực sự trở thành ngày hội của cộng đồng, là dịp giao lưu văn hóa, thắt chặt tình đoàn kết các dân tộc và để mọi người có ý thức gìn giữ, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa lễ hội.

Công tác điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, biên dịch, xuất bản văn hóa sử thi, truyện cổ, lời nói vần, nhạc cụ dân tộc... được ngành văn hóa triển khai thực hiện hiệu quả. Vừa qua, tỉnh đã sưu tầm, thống kê được một bản danh mục sử thi với tổng số 70 sử thi Ê-đê, 145 sử thi M’nông, 7.500 trang truyện cổ Ê-đê, 9.000 trang truyện cổ M’nông; biên dịch và xuất bản 12 tập truyện cổ Ê-đê, 08 truyện cổ M’nông; sưu tầm, nghiên cứu trên 50 loại nhạc cụ dân gian Ê-đê, M’nông, đồng thời phục hồi, chế tác, nâng cao đưa vào sử dụng trên 20 loại nhạc cụ tiêu biểu.

Bên cạnh bảo tồn, phát huy có hiệu quả văn hóa phi vật thể, trong những năm qua công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể cũng được tỉnh quan tâm, triển khai thực hiện có hiệu quả. Tỉnh đã phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tổ chức, điều tra và khai quật hàng chục di chỉ khảo cổ của người tiền sử trên địa bàn tỉnh có niên đại từ 2.500 đến 3.000 năm, đưa vào Bảo tàng Đắk Lắk hơn 10.850 đơn vị hiện vật. Song song với công tác sưu tầm hiện vật văn hóa lịch sử, tỉnh đã lập hồ sơ di tích đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xét, công nhận 11 di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh cấp quốc gia. Các di tích trên đã được bảo quản, trùng tu, khai thác phục vụ có hiệu quả khách tham quan, du lịch trong và ngoài tỉnh.

Có thể nói, công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc của tỉnh  trong những năm qua được triển khai thực hiện tương đối tốt, góp phần không nhỏ vào việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, ngoài những kết quả đạt được, công tác bảo tồn, phát triển văn hóa Đắk Lắk cũng còn những tồn tại.

Đánh giá một cách tổng thể, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh, nhất là ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát triển còn chậm so với mặt bằng chung. Một số công trình, dự án phát triển văn hóa chưa kết hợp chặt chẽ với công tác phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đời sống kinh tế, xã hội của đồng bào các dân tộc ở vùng nông thôn còn nhiều hạn chế; tỷ lệ hộ nghèo còn cao, công tác xóa đói, giảm nghèo còn thiếu bền vững; thiết chế văn hóa chưa được đầu tư tương xứng, đồng bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được yêu cầu. Thực tế này cũng là nguyên nhân góp phần làm cho một bộ phận đồng bào có lúc bị kẻ xấu lợi dụng tuyên truyền, kích động, có những hành vi vi phạm đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.

Mặt khác, do ảnh hưởng mặt trái của kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa và hội nhập quốc tế, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc ở Đắk Lắk đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Hiện nay, một bộ phận nhân dân, nhất là đối tượng thanh, thiếu niên bị ảnh hưởng bởi lối sống thực dụng từ những sản phẩm văn hóa ngoài luồng không lành mạnh đã rơi vào trạng thái mất phương hướng không kiểm soát được hành vi, sa ngã vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật... Trong thực tế đã có không ít gia đình do đời sống kinh tế khó khăn đã đem bán đi những bộ chiêng, ché quý để phục vụ tiêu dùng; lớp trẻ lớn lên không mặn mà với nền văn hóa truyền thống; nhiều nghệ nhân tài giỏi chưa kịp truyền dạy vốn văn hóa truyền thống của dân tộc mình cho thế hệ trẻ; vai trò già làng, trưởng buôn, vai trò chủ bến nước, các luật tục cộng đồng tốt đẹp cũng bị phai mờ trong đời sống sinh hoạt văn hóa của không ít buôn làng.

Từ thực tế đó, việc bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc ở Đắk Lắk là một trong những nhiệm vụ trọng yếu trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa và văn học, nghệ thuật trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải trở thành nội dung quan trọng của các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh. Nếu không đặt đúng vị trí và giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc thì không thể đạt được mục tiêu phát triển bền vững.

Nhận thức rõ vấn đề này, trong lãnh đạo, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, tỉnh luôn chú trọng đến công tác bảo tồn và phát huy vốn văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng bào các dân tộc. Trong các chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các cấp, các ngành đều có tính đến việc phát triển văn hóa, xây dựng những chuẩn mực đạo đức, lối sống cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế - xã hội, hướng tới sự phát triển bền vững. Tăng cường công tác chỉ đạo, giám sát, đôn đốc các ngành chức năng xây dựng và củng cố các thiết chế văn hóa theo hướng ngày càng văn minh, tiến bộ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân.

Quán triệt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển nền văn hóa Việt Nam, đồng thời để triển khai thực hiện tốt việc phát triển kinh tế, xã hội gắn với công tác bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc trong bối cảnh hội nhập theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, thời gian tới Đắk Lắk sẽ tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải pháp sau:

- Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp; phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn xã hội trong phát triển kinh tế và xây dựng đời sống tinh thần cho các tầng lớp nhân dân; cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể phải đưa nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật vào nghị quyết, các chương trình, kế hoạch hành động để tổ chức thực hiện. Trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, cần kế thừa, chọn lọc và phát huy có hiệu quả bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống cao đẹp, đấu tranh bài trừ các sản phẩm văn hóa, loại hình văn hóa độc hại, văn hóa lai căng ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội. 

- Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng cao vai trò, ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân tham gia công tác xây dựng và phát triển đời sống văn hóa trong tình hình mới. Đề cao vai trò của việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, quản lý, bảo đảm mối quan hệ phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa.

- Tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”; Chỉ thị số 46-CT/TW của Ban Bí thư (khóa X) “Về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”; triển khai thực hiện Đề án “Bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số đến năm 2020” theo Chỉ thị số 194/CT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các chương trình, đề án, kế hoạch xây dựng và phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật của Trung ương, của tỉnh. Thông qua công tác quán triệt, tuyên truyền, hướng dẫn, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị - tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, văn nghệ sĩ - trí thức, học sinh, sinh viên, đồng bào các dân tộc thiểu số nắm rõ đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa trong thời kỳ mới.

- Đối với Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng, Trung ương và địa phương tiếp tục có những chính sách phù hợp hỗ trợ nguồn kinh phí để tiếp tục thực hiện các chương trình, dự án, chính sách hỗ trợ phục vụ sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, như: Chương trình 134, 135 về chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn; chính sách nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở các cấp học phổ thông, đại học, cao đẳng, trung cấp dạy nghề; củng cố hệ thống trường dân tộc nội trú; trường đào tạo văn hóa - nghệ thuật, các chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa...

- Quy hoạch, đầu tư cho các chương trình, dự án, đề án phải luôn gắn với xây dựng và hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa ở các cấp, xây dựng các công trình phục vụ cho hoạt động văn hóa cộng đồng. Tổ chức hình thành cụm văn hóa các cấp với các thiết chế văn hóa bảo đảm tạo ra môi trường văn hóa phù hợp với phong tục, tập quán của địa phương. Tận dụng có hiệu quả khả năng của các cơ quan, đơn vị kinh tế, các nông - lâm trường để xây dựng các trung tâm văn hóa cơ sở phục vụ cho địa bàn dân cư. Coi trọng việc củng cố và phát huy hiệu quả các thiết chế văn hóa hiện có. Lựa chọn, bố trí những cán bộ có trình độ để quản lý và tổ chức các hoạt động thiết thực, hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân. Khắc phục khuynh hướng sử dụng các cơ sở văn hóa vào mục đích kinh doanh, coi nhẹ tính phục vụ.

- Tăng mức đầu tư ngân sách cho hoạt động văn hóa tương ứng mức tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển văn hóa. Thực hiện đầu tư có trọng điểm, giải quyết các vấn đề có tính cấp bách, như củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa; tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan tham mưu, lãnh đạo, nhất là công tác bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại cán bộ làm công tác văn hóa, văn nghệ. Coi trọng đào tạo những tài năng trẻ, tài năng người dân tộc thiểu số bảo đảm tính kế thừa trong hoạt động văn hóa, văn nghệ.

- Đẩy mạnh công tác đấu tranh bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, các tệ nạn xã hội, chống mê tín dị đoan và các hủ tục lạc hậu. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo; tuyên truyền giáo dục khắc phục tệ mê tín dị đoan, đấu tranh chống những kẻ lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để chống Đảng, Nhà nước ta./.