Nghị quyết số 68-NQ/TW góp phần tháo gỡ “điểm nghẽn” để kinh tế tư nhân bứt phá
TCCS - Là một bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân ở nước ta ngày càng có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, những “điểm nghẽn” về thể chế vẫn còn hiện hữu, khiến khu vực kinh tế tư nhân không thể bứt phá. Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4-5-2025, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế tư nhân” ra đời, được xác định là một trong 4 “trụ cột” để Việt Nam cất cánh, với rất nhiều chủ trương mang tính đột phá sẽ tháo gỡ những “điểm nghẽn” thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển.
Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta thời gian qua
Kinh tế tư nhân được dùng để chỉ các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các hình thức như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể. Sau gần 40 năm kể từ khi được thừa nhận và phát triển, khu vực kinh tế tư nhân nước ta đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Theo đó, khu vực kinh tế tư nhân hiện nay có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động(1). Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực và thế giới, như Tập đoàn Vingroup, Công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk, Tổng công ty Viglacera ...
Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân vẫn có những hạn chế nhất định, gồm:
Thứ nhất, một số chỉ tiêu được đề ra trong Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII,“Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” chưa đạt được, đóng góp vào ngân sách nhà nước của khu vực kinh tế tư nhân còn thấp.
Sau 40 năm đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân đã đạt được những kết quả to lớn, tuy nhiên, một số mục tiêu Nghị quyết số 10-NQ/TW vẫn chưa đạt như kỳ vọng, như: đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp, phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đến năm 2025 khoảng 55%(2). Mức đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân chỉ đạt khoảng 30% tổng thu ngân sách nhà nước, trong đó, đóng góp của nhóm hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh vào ngân sách nhà nước chưa tương xứng với tiềm năng, chỉ chiếm từ 1,5 - 2% tổng thu ngân sách do cơ quan thuế quản lý (3), trong khi đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc vào GDP lên tới 60% và 50% ngân sách nhà nước(4).
Thứ hai, kinh tế tư nhân đông nhưng chưa mạnh. Mặc dù số lượng doanh nghiệp khá lớn nhưng chủ yếu là quy mô nhỏ. Số liệu được thống kê trong Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp cho thấy, có tới 98% số doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa, trong đó, tỷ lệ gia nhập và tái gia nhập thị trường so với tỷ lệ doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường đang có xu hướng giảm xuống. Số doanh nghiệp rời thị trường trong năm 2024 lên tới 197.861 doanh nghiệp, cao nhất từ trước đến nay, trong đó có 100.098 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, 76.155 doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể và 21.608 doanh nghiệp giải thể trong năm 2024. Theo Sách trắng doanh nghiệp 2024, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân cũng kém hơn so với các thành phần kinh tế khác, khi tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ chiếm 44,3%, trong khi của doanh nghiệp nhà nước và khu vực FDI lần lượt là 82,9% và 52,6%(5).
Thứ ba, mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của khu vực kinh tế tư nhân còn hạn chế. Khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự trở thành lực lượng dẫn dắt nền kinh tế như kỳ vọng, chủ yếu tham gia vào khâu gia công, lắp ráp có giá trị gia tăng thấp, rất ít tham gia vào khâu tạo ra những giá trị gia tăng cao như sáng tạo và phát triển sản phẩm; tỷ lệ nội địa hóa thấp khi các nguyên vật liệu “đầu vào” đối với hàng hóa xuất khẩu chiếm tỷ lệ lớn là được nhập từ các doanh nghiệp FDI hoặc từ các quốc gia khác. Điều đó sẽ khiến chúng ta trở nên thụ động và bị ảnh hưởng lớn khi thế giới có những biến động, đặc biệt gần đây nhất là chính sách thuế quan của Mỹ.
Phát biểu tại Diễn đàn quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt năm 2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đặt câu hỏi: “Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu điện thoại di động thông minh; đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu linh kiện máy tính; đứng thứ 6 thế giới về xuất khẩu thiết bị máy tính; đứng thứ 7 thế giới về gia công phần mềm, đứng thứ 8 thế giới về thiết bị linh kiện điện tử. Đây là những con số có vẻ ấn tượng, hoành tráng, đáng tự hào, nhưng thử hỏi chúng ta đã bao giờ nhìn sâu vào bản chất những số liệu này chưa? Chúng ta đóng góp được bao nhiêu % giá trị trong đó? Hay là mình đang ở phân khúc thấp nhất của chuỗi giá trị, chủ yếu là gia công cho nước ngoài?”(6). Số liệu thực tế cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân tham gia chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI thấp, chỉ ở mức trên 20%; tỷ lệ nội địa hóa chỉ khoảng 20%, thấp hơn so với mức trung bình thế giới 27%; tỷ lệ nội địa hóa của một số sản phẩm công nghiệp xuất khẩu chủ chốt còn thấp, như điện tử là 20%, ô-tô là 9%(7); doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất điện thoại và lịnh kiện tại Việt Nam, nhưng nhập tới 89% giá trị linh kiện; tại tỉnh Thái nguyên có 60 doanh nghiệp là đối tác cấp 1 cung ứng cho Sam Sung, nhưng có tới 55 doanh nghiệp nước ngoài; tại tỉnh Bắc Ninh có 176 doanh nghiệp là đối tác cấp 1 cung ứng cho Sam Sung thì có tới 164 doanh nghiệp nước ngoài(8). Ngay cả đối với ngành dệt may và da giày - là ngành nghề có tỷ trọng xuất khẩu lớn, nhưng phần lớn nguyên vật liệu “đầu vào” cho quá trình sản xuất cũng chủ yếu được nhập khẩu từ các quốc gia khác, đặc biệt là Trung Quốc(9).

Những “điểm nghẽn” hiện hữu, cản trở sự bứt phá của khu vực kinh tế tư nhân
Ngoài những nguyên nhân từ phía nội tại của các doanh nghiệp, hạn chế của khu vực kinh tế tư nhân cũng xuất phát một phần từ những “điểm nghẽn”, “rào cản” về thể chế, chính sách kinh tế khiến các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh. Một số “điểm nghẽn” bao gồm:
Thứ nhất, khu vực kinh tế tư nhân gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực.
Nguồn lực được coi là mạch máu của doanh nghiệp, bởi không có nguồn lực, doanh nghiệp khó có thể lớn mạnh. Tuy nhiên, trên thực tế việc tiếp cận các nguồn lực không hề dễ dàng đối với khu vực kinh tế tư nhân, thậm chí còn xuất hiện sự thiếu công bằng trong tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế. “Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Chính phủ chưa thực sự hiệu quả và công bằng giữa các khu vực kinh tế và không dễ tiếp cận đối với kinh tế tư nhân. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài vẫn nhận được nhiều ưu đãi hơn so với khu vực tư nhân. Doanh nghiệp nhà nước thường thuận lợi hơn trong tiếp cận đất đai, vốn, tín dụng; trong khi doanh nghiệp nước ngoài thường được hỗ trợ tốt hơn về thuế, thủ tục hải quan, và cả tiếp cận đất đai”(10). Thực tế cho thấy, kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong tiếp cận nguồn lực, như vốn, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và đặc biệt trong tiếp cận đất đai. Theo kết quả đánh giá Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2024 cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp khó khăn tiếp cận mặt bằng kinh doanh có dấu hiệu gia tăng qua các năm. Có đến gần 73,58% số doanh nghiệp cho biết họ phải trì hoãn hoặc hủy bỏ kế hoạch kinh doanh do gặp khó khăn khi thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai. Chỉ có 32,79% số doanh nghiệp trả lời rằng họ không gặp cản trở về tiếp cận đất đai hoặc mở rộng mặt bằng kinh doanh; trong khi đó có tới 31,25% số doanh nghiệp không làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do lo ngại thủ tục hành chính rườm rà(11).
Tiếp cận nguồn vốn tín dụng cũng là khó khăn đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân. Có 54% số doanh nghiệp trả lời gặp khó khăn trong tiếp cận tín dụng, mặc dù tỷ lệ này đã giảm 3% so với năm 2023 nhưng đây vẫn là khó khăn được các doanh nghiệp lựa chọn cao nhất liên tục từ năm 2022 trở lại đây(12). Luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (ban hành năm 2017, sửa đổi năm 2020) có nhiều cơ chế, chính sách tạo động lực cho loại hình doanh nghiệp này phát triển, trong đó có việc thành lập Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa do Bộ Tài chính quản lý với lãi suất thấp hơn so với ngân hàng thương mại, tuy nhiên các doanh nghiệp khó có thể tiếp cận nguồn vốn từ quỹ này nếu không có tài sản bảo đảm, thủ tục phức tạp tương tự như vay từ ngân hàng thương mại. Tất cả điều đó gây cản trở cho việc gia nhập thị trường, mở rộng đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, thủ tục hành chính rườm rà, nhiều tầng nấc và “giấy phép con”, gây ảnh hưởng đến cơ hội của doanh nghiệp.
Mặc dù Chính phủ đã nhiều lần tiến hành rà soát, xóa bỏ “giấy phép con” gây cản trở hoạt động của doanh nghiệp, tuy nhiên “rào cản” này vẫn còn hiện hữu. Với 227 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo Luật Đầu tư 2020, mỗi ngành, nghề kinh doanh có nhiều điều kiện đi kèm. Điều này gây tâm lý e ngại khi mở rộng đầu tư. Một số doanh nghiệp phải trì hoãn, thậm chí hủy bỏ kế hoạch kinh doanh, gây lãng phí thời gian, nguồn lực và cơ hội kinh doanh.
Những bất cập liên quan đến thanh tra, kiểm tra cũng là một nội dung gây phiền hà, khó khăn, ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ thị số 20/CT-TTg, ngày 17-5-2017, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp” quy định: Không được thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp quá một lần/năm, chỉ được thanh tra đột xuất khi phát hiện vi phạm rõ ràng; trường hợp thanh tra, kiểm tra chồng chéo trùng lắp thì cần có sự kế thừa không làm cản trở hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Tuy nhiên, kết quả đánh giá PCI cho thấy, có tới 5,34% số doanh nghiệp trả lời rằng doanh nghiệp của họ bị thanh, kiểm tra trên 3 lần một năm; có tới 22,22% số doanh nghiệp trả lời rằng nội dung của các đoàn thanh tra, kiểm tra bị trùng lắp(13).
Điểm mới mang tính bước ngoặt giúp khu vực kinh tế tư nhân bứt phá trong kỷ nguyên mới
Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4-5-2025, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế tư nhân” được coi là Nghị quyết mang tính đột phá, bước ngoặt lịch sử đối với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Nghị quyết không chỉ khẳng định vị thế và vai trò then chốt của kinh tế tư nhân, mà còn cam kết cải thiện môi trường đầu tư, gỡ bỏ “rào cản”, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân bứt phá trong giai đoạn mới. Những điểm mới mang tính bước ngoặt của Nghị quyết số 68-NQ/TW được thể hiện ở nội dung sau:
Một là, đột phá trong quan điểm và nhận thức về vai trò, vị trí của khu vực kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân chính thức được công nhận là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986). Vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần được bổ sung và hoàn thiện dần qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế đất nước. Từ chỗ chỉ là thành phần kinh tế cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp, sau là được sản xuất trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh, đến có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được khuyến khích phát triển trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm; từ chỗ là một trong những động lực của nền kinh tế trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Sự ra đời của Nghị quyết số 68-NQ/TW là bước ngoặt khi xác định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”, doanh nhân là những người “chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”. Chưa bao giờ, vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân lại được khẳng đinh mạnh mẽ như Nghị quyết lần này. Sự thay đổi mang tính đột phá về tư duy này không chỉ là sự tiếp nối, phát triển tinh thần của 2 nghị quyết chuyên đề về kinh tế tư nhân (Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 18-3-2002, của Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân” và Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII,“Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”), mà còn thể hiện sự táo bạo, tin tưởng giao trọng trách cho khu vực kinh tế tư nhân. Điều đó thể hiện sự cam kết chính trị mạnh mẽ rằng Nhà nước sẽ kiến tạo, phục vụ, hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển nhanh và bền vững. Ngược lại, mỗi doanh nghiệp, hộ kinh doanh cần nhận thức đúng, thể hiện được sứ mệnh cao cả của mình, đó là xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, vững bước trong kỷ nguyên mới. “Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là yêu cầu về mặt kinh tế mà còn là mệnh lệnh chính trị, nhằm củng cố nền tảng tự chủ kinh tế quốc gia, nâng cao sức cạnh tranh và khả năng thích ứng trong một thế giới đầy biến động”(14).
Thứ hai, xóa bỏ tư duy “không quản được thì cấm,” chuyển đổi trạng thái phục vụ từ “thụ động” sang “chủ động phục vụ”, chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, quyết liệt trong cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh.
Tư duy “không quản được thì cấm” là một tư duy an toàn cho nhà quản lý, nhưng gây cản trở sự gia nhập thị trường, phát triển của các doanh nghiệp, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Do đó, nếu loại bỏ được tư duy này sẽ tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và khơi thông các nguồn lực phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, cần phải chuyển đổi trạng thái từ “thụ động phục vụ” sang trạng thái “chủ động phục vụ người dân doanh nghiệp”. Nhà nước chủ động kiến tạo, chủ động nhận thức, tháo gỡ những “điểm nghẽn”, chủ động tạo môi trường cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Khi đó, cần xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, các cơ chế, chính sách được xây dựng, thực hiện dựa trên tinh thần “lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm”; mọi chính sách được thiết kế nhằm điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp phát triển.
Chuyển đổi từ cơ chế “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” là một bước tiến quan trọng được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 68-NQ/TW. Thay vì siết chặt “đầu vào” bằng nhiều loại “giấy phép con”, hạn chế gia nhập thị trường của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân, sự chuyển đổi thể hiện ở việc Đảng, Nhà nước ta tạo điều kiện cho “đầu vào” thông thoáng, tiết giảm những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; quyết liệt cắt giảm những điều kiện kinh doanh không cần thiết; cắt giảm triệt để các thủ tục hành chính rườm rà, nhiều tầng nấc, giúp doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế dễ dàng gia nhập thị trường, mở rộng sản xuất, kinh doanh; khơi thông nguồn lực nhưng quản lý chặt chẽ “đầu ra” bằng các công cụ, tiêu chuẩn, quy chuẩn và tăng cường giám sát, kiểm tra.

Thứ ba, Nghị quyết số 68-NQ/TW giúp khu vực kinh tế tư nhân khơi thông nguồn vốn, tiếp cận đất đai.
Nghị quyết số 68-NQ/TW quy định, mỗi một địa phương phải dành quỹ đất tương ứng trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, với diện tích khoảng 20ha, hoặc tối thiểu là 5% quỹ đất đã được đầu tư hạ tầng để dành riêng cho các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Ngoài ra, các doanh nghiệp này được giảm tối thiểu 30% tiền thuê đất trong thời hạn 5 năm. Mặc dù trước đây Đảng, Nhà nước ta đã ban hành chủ trương, đường lối và các cơ chế, chính sách về đất đai, tuy nhiên Nghị quyết số 68-NQ/TW thể hiện tính đột phá, cụ thể hơn và phạm vi rộng hơn. Nghị quyết số 68-NQ/TW mạnh dạn đưa ra cơ chế cho phép sử dụng các hình thức bảo đảm linh hoạt hơn, như tín chấp, tài sản bảo đảm hình thành trong tương lai nhằm giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, có thể tiếp cận được nguồn vốn. Nghị quyết số 68-NQ/TW khẳng định việc xóa bỏ hình thức thuế khoán đối với hộ kinh doanh chậm nhất trong năm 2026, bãi bỏ lệ phí môn bài; miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong 3 năm đầu thành lập. Đây là bước ngoặt lớn, thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta trong việc tạo lập môi trường cho kinh tế tư nhân phát triển. Mặc dù Nghị quyết số 10-NQ/TW (năm 2017) đã đề cập đến việc miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tuy nhiên chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp.
Thứ tư, đột phá về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm theo tinh thần bảo vệ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển.
Nghị quyết số 68-NQ/TW khẳng định, đối với các vụ, việc liên quan đến dân sự, hành chính và kinh tế sẽ ưu tiên sử dụng các biện pháp xử lý về hành chính, dân sự và kinh tế. Trường hợp thực tiễn áp dụng pháp luật có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không áp dụng xử lý hình sự. Trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các biện pháp xử lý tiếp theo. Tất cả những nội dung trên thể hiện quyết tâm của Đảng ta trong việc bảo vệ, khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, để giảm bớt phiền hà, gián đoạn kế hoạch sản xuất - kinh doanh của các chủ thể kinh tế, Đảng ta kiên quyết nghiêm cấm các hành vi thanh tra, kiểm tra gây nhũng nhiễu, trùng lắp, kéo dài thời gian không cần thiết gây phiền hà cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi sang thanh tra trực tuyến, giảm bớt thanh tra trực tiếp cũng là cách để giảm bớt sự phiền hà cho doanh nghiệp.
Sau gần 40 năm kiên trì thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt những thành tựu to lớn. “Bộ tứ trụ cột”(15) (gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, về thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật) là những nghị quyết quan trọng giúp Việt Nam cất cánh. Trong đó, Nghị quyết số 68-NQ/TW với nhiều điểm mới mang tính bước ngoặt lịch sử sẽ tháo gỡ những “điểm nghẽn” giúp kinh tư tư nhân bứt phá, đóng góp xây dựng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới./.
--------------------------
(1) Xem: Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4-5-2025, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế tư nhân”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/Uploads/2025/5/7/5/NQ-68-TW.pdf
(2) Xem: Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII,“Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-10-nqtw-ngay-362017-hoi-nghi-lan-thu-nam-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-ve-phat-trien-kinh-te-tu-3222
(3) Văn Tuấn: Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp ngân sách chưa tương xứng với tiềm năng, Thời báo Tài chính Việt Nam, ngày 2-10-2024, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/ho-kinh-doanh-ca-nhan-kinh-doanh-nop-ngan-sach-chua-tuong-xung-voi-tiem-nang-160830.html
(4) (8) Cấn Văn Lực và nhóm chuyên gia: Vai trò, thực trạng và giải pháp đột phá kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới, Báo Nhân dân điện tử, 2025, https://special.nhandan.vn/kinh-te-tu-nhan-trong-ky-nguyen-moi/index.html
(5) Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp: Báo cáo tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2024, ngày 6-1-2025, https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin-tuc/597/6818/bao-cao-tinh-hinh-dang-ky-doanh-nghiep-nam-2024.aspx
(6) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Sách trắng doanh nghiệp năm 2024, Nxb. Thống kê, tr. 38
(7) (9) GS, TS: Nỗ lực tự cường, tự chủ công nghệ để phát triển mạnh mẽ ngành công nghệ nước nhà và nâng cao vị thế của Việt Nam trên bản đồ công nghệ thế giới, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 15-1-2025, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/cac-doanh-nghiep-cong-nghe-so-viet-nam-khong-ngung-doi-moi-sang-tao-gop-phan-vao-su-phat-trien-manh-me-cua-nganh-cong-nghe-nuoc-nha-va-nang-cao-vi-the
(10) Kate Trần: Nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, da giày tăng mạnh, VTV online, ngày 21-11-2024, https://vtv.vn/kinh-te/nhap-khau-nguyen-phu-lieu-det-may-da-giay-tang-manh-20241120213223895.htm
(11) GS, TS Tô Lâm: Phát triển kinh tế tư nhân - đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 17-3-2025, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/phat-trien-kinh-te-tu-nhan-don-bay-cho-mot-viet-nam-thinh-vuong
(12), (13), (14) Xem VCCI: PCI 2024 chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam, https://www.pcivietnam.vn/uploads/VN-Bao-cao-ngan-PCI/Bao-cao-ngan-2024.pdf, tr. 53, tr. 33, tr. 51
(15) GS, TS Tô Lâm, Thực hiện “Bộ tứ trụ cột” để tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước phát triển, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 18-5-2025, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/doi-moi-khat-vong-hanh-dong-vi-mot-viet-nam-giau-manh-phon-vinh-hung-cuong
Tọa đàm giữa lãnh đạo Chính phủ với doanh nghiệp để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW  (31/05/2025)
Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và đổi mới công tác xây dựng, thi hành pháp luật  (18/05/2025)
Hưởng ứng Nghị quyết số 68-NQ/TW, Tập đoàn Đèo Cả đưa 2 kiến nghị và 5 giải pháp để kinh tế tư nhân bứt phá  (16/05/2025)
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính: Khẩn trương đưa nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân vào cuộc sống  (08/05/2025)
- Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
- Tư duy đổi mới - Từ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh đến quá trình nhận thức và vận dụng của Đảng ta
- Phát huy vai trò lãnh đạo của cán bộ, công chức, viên chức, xây dựng nền hành chính Thủ đô văn minh, hiện đại, hiệu lực và hiệu quả
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế ở Việt Nam
- Chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” của Mỹ: Kế thừa và triển khai
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Gìn giữ, phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Ngày Bác Hồ trở về nước (28-1-1941) - Thời khắc lịch sử vô cùng trọng đại đối với tiến trình lịch sử vẻ vang của dân tộc - Sau 80 năm nhìn lại