Cách mạng Tháng Mười nổ ra cách đây tròn 90 năm. Trong lịch sử loài người, chưa từng thấy cuộc cách mạng nào mà ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của nó lại to lớn đến như vậy. Cách mạng Tháng Mười vĩ đại đã làm “rung chuyển thế giới”, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đó là bước nhảy vọt trong lịch sử phát triển nhân loại, đánh dấu sự ra đời và phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa, biến chủ nghĩa xã hội từ lý tưởng trở thành hiện thực. Cách mạng Tháng Mười có ảnh hưởng vô cùng lớn lao tới phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, trong đó có thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chín mươi năm qua, thế giới có những biến đổi hết sức to lớn và sâu sắc, đã từng chứng kiến những thành tựu vĩ đại của quê hương Cách mạng Tháng Mười và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới, cũng như chứng kiến bước lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội, nhưng lịch sử càng lùi xa, thì những giá trị vạch thời đại mà Cách mạng Tháng Mười khai mở đến nay vẫn giữ nguyên tính hiện thực.

1- Tháng lợi của Cách mạng Tháng Mười là thắng lợi của học thuyết Mác - Lê-nin, mở ra thời đại mới trong lịch sử nhân loại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới

Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848), C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã vạch rõ, con đường từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được thực hiện và hoàn thành thông qua những cải tạo căn bản trong quan hệ sở hữu và trong toàn bộ hệ thống các quan hệ sản xuất. Muốn vậy, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và giai cấp vô sản phải vươn lên nắm lấy chính quyền. Hai ông dự báo: Sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đều là tất yếu như nhau.

Đầu thế kỷ XX, nhằm phân chia lại thị trường thế giới, giai cấp tư sản ở các nước đế quốc đã gây ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nước Nga Sa hoàng - một nước tham chiến, đã trở thành mắt xích yếu nhất trong sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa. Cuộc chiến tranh đã làm cho nước Nga kiệt quệ, phá sản. Nhân dân Nga đứng trước sự lựa chọn: hoặc là chết cho một cuộc chiến tranh vô nghĩa ngoài chiến trường, hoặc là phải làm một cuộc cách mạng. Chế độ Nga hoàng và giai cấp tư sản Nga đã không tìm được câu trả lời cho lịch sử nước Nga lúc bấy giờ. Để cứu đất nước ra khỏi thảm họa, những người Bôn-sê-vích, đứng đầu là V.I. Lê-nin, đã đưa ra được câu trả lời đúng đắn cho vấn đề đó bằng cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại.

Ngày 7-11-1917, đông đảo công - nông - binh và quần chúng bị áp bức, bóc lột ở nước Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích Nga do V.I. Lê-nin đứng đầu, đã vùng lên lật đổ chế độ chuyên chế Nga hoàng, đập tan ách thống trị của giai cấp địa chủ và tư sản, giành lấy ruộng đất và bánh mì, giành chính quyền về tay mình. Cách mạng Tháng Mười đã đặt ra và giải quyết được những vấn đề lý luận căn bản nhất của cách mạng vô sản: chuyên chính vô sản; xây dựng lực lượng đồng minh của giai cấp vô sản; mối quan hệ giữa dân tộc và thuộc địa, giữa chiến tranh và hòa bình; chính đảng cách mạng; mối quan hệ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước và cách mạng thế giới…

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lê-nin đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa; đã làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý thuyết trở thành hiện thực; lý luận của Mác vì thế đã trở thành sức mạnh vật chất cải tạo thế giới. Điều đó bắt buộc chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản phải có những điều chỉnh để thích nghi, tồn tại.

Trước Cách mạng Tháng Mười, nhân loại đã chứng kiến nhiều cuộc cách mạng có vai trò đặc biệt trong số phận của các dân tộc, trong sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, tất cả các cuộc cách mạng đó chỉ dẫn đến sự thay thế hình thức tư hữu này bằng hình thức tư hữu khác, sự thống trị của giai cấp bóc lột này bằng giai cấp bóc lột khác. Nhưng khác với các cuộc cách mạng trước đó, Cách mạng Tháng Mười đã thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, giải phóng triệt để giai cấp vô sản và nhân dân lao động nước Nga khỏi ách áp bức, bóc lột phong kiến và tư sản, thiết lập nền chuyên chính vô sản, xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, chưa từng có ở nước Nga và trên thế giới. "Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế. Cách mạng Tháng Mười là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác và học thuyết Lê-nin ở một nước lớn là Liên Xô, rộng một phần sáu thế giới… Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới"(1).

Một trong những nhiệm vụ sống còn của nước Nga ngay sau Cách mạng Tháng Mười là phải bảo vệ những thành quả cách mạng trước sự tấn công quyết liệt của thù trong giặc ngoài. Đập tan cuộc can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc và kết thúc nội chiến ở nước Nga, Cách mạng Tháng Mười đã chứng thực những giá trị đích thực và khả năng tự bảo vệ. Từ trong muôn trùng khó khăn, thử thách, trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, Liên bang Xô-viết đã ra đời ngày 30-12-1922, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản về quyền tự quyết của các dân tộc. Như vậy, từ chỗ là “nhà tù của các dân tộc”, nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười đã trở thành một liên bang bình đẳng của các dân tộc tự do.

Những thập kỷ sau khi Liên bang Xô-viết được thành lập, nhân loại đã chứng kiến những thành tựu to lớn trên quê hương Cách mạng Tháng Mười. Liên Xô trở thành lực lượng quyết định nhất tiêu diệt chủ nghĩa phát-xít, cứu loài người khỏi thảm họa hủy diệt trong chiến tranh thế giới thứ hai. Chỉ trong vòng 20 năm sau chiến tranh, Liên Xô đã đạt những thành tựu vĩ đại: nước đầu tiên khai phá con đường chinh phục vũ trụ, cũng là nước đầu tiên đưa năng lượng hạt nhân vào phục vụ đời sống hòa bình của con người. Nền khoa học Xô-viết đã tiến tới những đỉnh cao trong nhiều lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn… Những tuyên ngôn của Cách mạng Tháng Mười đã được thực hiện trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước Xô-viết, tạo ra không gian rộng lớn cho khả năng sáng tạo và phát triển con người Xô-viết, nhân cách Xô-viết. Liên Xô đã trở thành trụ cột của hòa bình thế giới, trở thành một thực thể không thể thiếu trong đời sống chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế, một tiếng nói đầy trọng lượng trong những quyết định quan trọng nhất của thế giới ở thế kỷ XX. Sự thực khách quan đó không một thế lực nào có thể phủ nhận được.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã sáng tạo ra kỷ nguyên mới của lịch sử nước Nga, đồng thời đã vạch mốc thời đại, mở ra kỷ nuyên mới trong lịch sử nhân loại: kỷ nguyên hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, Cách mạng Tháng Mười có tầm vóc vượt khỏi không gian và thời gian, trở thành biểu tượng lớn của thời đại.

2- Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại tạo nên bước ngoặt trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới

V.I. Lê-nin khẳng định "Tấm gương Nga chỉ ra cho tất cả các nước thấy một cái gì hoàn toàn căn bản về tương lai tất yếu và gần đây của họ"; "một số đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng của ta không phải chỉ có ý nghĩa địa phương, ý nghĩa đặc biệt - dân tộc, ý nghĩa riêng của nước Nga mà có ý nghĩa quốc tế… nó có tính tất yếu lịch sử là sẽ tái diễn trong phạm vi quốc tế"(2). Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã làm thay đổi trật tự thế giới theo chiều hướng tiến hóa của lịch sử, vì nó tạo ra cơ sở và khai phá con đường phát triển mới cho các quốc gia dân tộc theo xu hướng độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Mười không chỉ làm lung lay tận gốc rễ chủ nghĩa đế quốc ở trung tâm của nền thống trị của nó, mà còn là đòn chí mạng đánh vào hậu phương của chủ nghĩa đế quốc, đánh dập những chiếc vòi bạch tuộc của chủ nghĩa đế quốc đang vươn dài ra các xứ thuộc địa và phụ thuộc; cổ vũ, phát động cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa và phục thuộc ở các châu Á, Phi, Mỹ La-tinh, đồng thời chỉ cho họ con đường và khả năng tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng ấy. Làn gió Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười và nước Nga Xô-viết đã thức tỉnh phương Đông, châu Phi, Mỹ La-tinh chính là bởi nó đã thực hiện một cuộc cách mạng giải phóng xã hội, giải phóng con người một cách triệt để và sâu xa. Đó là sự khác biệt về chất so với các cuộc cách mạng tư sản và đã mở ra kỷ nguyên mới trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của các dân tộc bị nô dịch và phụ thuộc trên thế giới. Như vậy, Cách mạng Tháng Mười đã "đánh dấu một bước ngoặt căn bản trong đời sống toàn thể loài người, đã đặt giai cấp công nhân vào vị trí trung tâm của thời đại, đã thức tỉnh đông đảo quần chúng lao động và các dân tộc bị áp bức bóc lột đấu tranh giải phóng giai cấp, giành độc lập dân tộc, giành tự do và phẩm giá con người, giành quyền làm chủ vận mệnh của mình"(3). Điều đó nói lên ý nghĩa quốc tế nhiều mặt của Cách mạng Tháng Mười.

Là biểu tượng của niềm tin, Cách mạng Tháng Mười đã trở thành tiêu điểm thu hút và tập hợp các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho những mục tiêu cao cả của nhân loại. Quá trình quốc tế hóa cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc đã đưa đến sự hình thành liên minh phong trào vô sản và phong trào giải phóng dân tộc. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản - Quốc tế III, được thành lập, đánh dấu bước ngoặt về sự phát triển tinh thần liên hiệp, đoàn kết của những người vô sản và các dân tộc bị áp bức trong trận tuyến đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Vì lý tưởng Cách mạng Tháng Mười, vì nền hòa bình cho nhân loại, cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô không chỉ bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mà còn cứu loài người khỏi họa diệt chủng phát-xít, tạo điều kiện cho cách mạng nhiều nước phát triển và giành thắng lợi. Bởi vậy, sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi những điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi, một loạt các nước ở Đông Âu, châu Á, châu Mỹ đã tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Phong trào cách mạng dân tộc dân chủ ở các nước Á, Phi, Mỹ La-tinh cùng với các cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở các nước tư bản đã hợp thành dòng thác chung của phong trào cách mạng thế giới đi lên chủ nghĩa xã hội. Bộ mặt hành tinh đã đổi thay khi chủ nghĩa xã hội từ một nước riêng rẽ trở thành một hệ thống, đưa thế giới vận động, phát triển theo xu hướng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân ở các nước đã trở thành đặc điểm và nội dung lớn của thời đại.

3- Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam và sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Đối với cách mạng Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười có ý nghĩa và ảnh hưởng vô cùng to lớn, sâu sắc trên nhiều phương diện, cả về lý luận và thực tiễn, trong thời kỳ trước và sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cả trong Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới hiện nay.

Ngay từ khi còn bôn ba tìm đường cứu nước, khi đến với “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lê-nin (7-1920), Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến. Dưới tác động "thức tỉnh" của Cách mạng Tháng Mười, được những “Luận cương” của V.I. Lê-nin soi sáng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, chỉ có đi theo cách mạng Nga, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động toàn thế giới khỏi bị "đọa đày đau khổ", khỏi mọi xiềng xích của chủ nghĩa thực dân - phong kiến.

Tháng 11-1926, trên tờ Thanh Niên, Nguyễn Ái Quốc viết: "Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là quần chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam… Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải có dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lê-nin"(4). Đi theo con đường cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc chọn lựa, cách mạng Việt Nam đã vượt qua được rất nhiều thác ghềnh, sự gian khổ, hy sinh để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Khi xã hội Việt Nam còn đắm chìm trong đêm dài nô lệ và diễn ra sự khủng hoảng rất sâu sắc về đường lối, thì Cách mạng Tháng Mười đã mở đường, soi sáng và tạo động lực thúc đẩy cách mạng Việt Nam phát triển tới thắng lợi. Vận dụng đúng đắn và sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê-nin và những bài học lịch sử quý giá của Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản; đã sáng lập và xây dựng một đảng mác-xít chân chính ngày càng vững mạnh vào mùa Xuân năm 1930; đã gắn bó khăng khít cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười, đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của thời đại, khát vọng cháy bỏng độc lập, tự do cho dân tộc, những người cộng sản và toàn thể dân tộc Việt Nam đã tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, thiết lập nền dân chủ cộng hòa và nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã huy động được sức mạnh vĩ đại của toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để làm nên chiến công oanh liệt đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là những bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Không thể có đường lối cứu nước và giải phóng dân tộc đúng đắn, không thể có thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX nếu không có chủ nghĩa Mác - Lê-nin và ánh sáng Cách mạng Tháng Mười soi đường chỉ lối, nếu không có sự giúp đỡ to lớn, hiệu quả của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đánh giá ảnh hưởng và tác động sâu sắc của Cách mạng Tháng Mười tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Càng nhớ lại những ngày tủi nhục mất nước, nhớ lại mỗi bước đường đấu tranh đầy hy sinh gian khổ mà cũng đầy thắng lợi vẻ vang thì giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam càng thấm thía công ơn to lớn của Lê-nin và Cách mạng Tháng Mười"(5). Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, sự lựa chọn và dẫn dắt nhân dân ta đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn; đó là sự lựa chọn của lịch sử, phù hợp với bước tiến hóa của lịch sử dân tộc và xu thế của thời đại.

Nhận thức rõ đổi mới là tất yếu, "đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi hỏi của thời đại, đối phó thắng lợi với mọi thử thách, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân"(6), năm 1986, tại Đại hội lần thứ VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Trong đổi mới, mặc dù tình hình quốc tế diễn biến hết sức phức tạp, các thế lực phản động trong và ngoài nước không ngừng chống phá, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam - một Đảng mác-xít - lê-nin-nít chân chính, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, đã luôn luôn tiếp thu và vận dụng đúng đắn những bài học vô giá của Cách mạng Tháng Mười, trong đó bài học cơ bản nhất là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong đổi mới. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của hơn 20 năm đổi mới trên đất nước ta là bước tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, những giá trị và biểu tượng của Cách mạng Tháng Mười lên một tầm cao mới của nền văn minh hiện đại. Trong đổi mới và qua thực tiễn đổi mới, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã ngày càng sáng rõ hơn. Những thành tựu to lớn mà Việt Nam cũng như một số nước xã hội chủ nghĩa đạt được trong quá trình cải cách, đổi mới, xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm đất nước và thời đại, không chỉ củng cố vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước, mà còn gia tăng ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới.

Kiên định mục tiêu và kiên trì những nguyên tắc trong đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"(7). Những bài học quý giá từ Cách mạng Tháng Mười, những kinh nghiệm lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trước đây cũng như từ quá trình cải cách, đổi mới thành công vừa qua ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa khác trên thế giới, ngày nay cần phải được nghiên cứu một cách thiết thực, đặc biệt là bài học về thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng, về công tác cán bộ, về nâng cao cảnh giác cách mạng, chống âm mưu "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc. Điều đó đòi hỏi Đảng ta và nhân dân ta phải không ngừng sáng tạo cả trong tư duy và hành động, để tiếp tục làm sâu sắc và phong phú thêm di sản lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

4- Kiên định lý tưởng Cách mạng Tháng Mười, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời kỳ mới

Lịch sử nhân loại đã chứng tỏ, mọi cuộc cách mạng từng xảy ra đều không hề đi theo một đường thẳng (ngay cả đối với các cuộc cách mạng tư sản ở Anh, Pháp, Mỹ cũng vậy). Thực tiễn cho thấy, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười là một thời kỳ lịch sử lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và diễn ra không đơn giản, dễ dàng, bằng phẳng mà hết sức phức tạp, quanh co, khúc khuỷu, thông qua cuộc đấu tranh gay gắt giữa các mặt đối lập, thậm chí có những bước lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới. Đúng như V.I. Lê-nin đã chỉ dẫn: "Trong mỗi thời đại đều có và sẽ còn có những phong trào cá biệt, cục bộ, khi tiến, khi lùi; đều có và sẽ còn có những thiên hướng khác nhau đi chệch ra khỏi phong trào chung và nhịp độ chung của phong trào"(8).

Nhân loại đã từng chứng kiến, trong những thập niên đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô đã phát huy được tính ưu việt của chế độ để tạo nên những thành tựu rực rỡ mà đỉnh cao là vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Nhưng cũng vào thời điểm đó, sự chậm trễ trong phát hiện và khắc phục những thiết sót, khuyết tật của mô hình cũ về chủ nghĩa xã hội đã làm cho Liên Xô lâm vào trì trệ và khủng hoảng. Trong nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó, có một nguyên nhân và là nguy cơ đối với các Đảng Cộng sản cầm quyền trên thế giới, đó là sự xa rời các nguyên tắc Lê-nin-nít về tổ chức và sinh hoạt Đảng đã làm cho Đảng Cộng sản cầm quyền ở Liên Xô trở nên suy yếu và đi đến tan rã. V.I. Lê-nin đã từng cảnh cáo: "Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình"(9). Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị rơi vào tình trạng đó. Việc Đảng không thường xuyên tự đổi mới đã làm cho Đảng trở thành quan liêu, xa rời thực tiễn, xa rời quần chúng, đã mất sức chiến đấu, đánh mất bản lĩnh chính trị và xuất hiện nhiều kẻ cơ hội chủ nghĩa. Điểm yếu của công cuộc cải tổ ở Liên Xô còn là ở chỗ, nó không được chuẩn bị chu đáo và có hệ thống về mặt lý luận; bệnh giáo điều về lý luận đã làm cho tư duy lý luận bị xơ cứng. Trong khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu chưa thoát khỏi khủng hoảng thì giai cấp tư sản đã chọn được thời điểm thích hợp nhất để tăng cường chiến lược "diễn biến hòa bình". Trong bối cảnh đó, sự phản bội của những người đứng đầu trong ban lãnh đạo của Đảng đã làm cho việc sửa chữa những khuyết tật của chủ nghĩa xã hội trở thành phá bỏ sạch trơn mô hình đó, mà phá bỏ mô hình đó cũng có nghĩa là phá bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu.

Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu làm cho chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào. Nhưng sự thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô-viết không bắt nguồn từ nguyên nhân hay bản chất của Cách mạng Tháng Mười, không đồng nhất với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự thất bại đó cũng không hề nói lên chủ nghĩa xã hội là không tưởng, bởi vì chủ nghĩa xã hội còn rất trẻ và còn rất ít kinh nghiệm lịch sử, những mặt ưu việt của nó còn được tiếp tục hoàn thiện. Đối với chủ nghĩa tư bản, những đặc trưng của chủ nghĩa tư bản còn tồn tại và chưa bị phủ định hoàn toàn, nhưng nếu nhận thức biện chứng về bản chất, mâu thuẫn, xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản thì thấy, trật tự của nó không phải là vĩnh cửu. Chủ nghĩa tư bản, trong quá trình tồn tại và phát triển, đã đem đến nhiều thành tựu nhưng cũng gây biết bao tai họa cho loài người, kể cả thảm hoạ phát-xít. Trong lòng chủ nghĩa tư bản vẫn ẩn chứa những khả năng tiềm tàng cho khủng hoảng và bất ổn định xã hội. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa đã tập trung vào một cực của nó sự giàu có, còn đẩy cực kia vào sự đói nghèo, lạc hậu, bệnh tật và tha hóa. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế cũng làm cho mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa của quan hệ sản xuất vượt khỏi không gian vật chất của một nước tư bản và mang tính toàn cầu. Bên cạnh đó là mâu thuẫn giữa các trung tâm tư bản lớn trên thế giới; mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển; mâu thuẫn giữa các công ty, tập đoàn tư bản với nhau… Những mâu thuẫn này càng làm sâu sắc hơn mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản. Muốn giải quyết triệt để những mâu thuẫn ấy, loài người phải vượt qua khuôn khổ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cũng tức là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội để hiện thực hóa lý tưởng Cách mạng Tháng Mười. V. I. Lê-nin đã từng chỉ rõ: Chủ nghĩa tư bản độc quyền - nhà nước là "sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc nào ở giữa cả"(10).

Thế giới ngày nay có những điểm khác so với năm 1917 và càng khác xa so với thời kỳ Mác cách đây gần 160 năm, nhưng lịch sử vẫn không đi ra ngoài những quy luật đã được chủ nghĩa Mác - Lê-nin khám phá; tính chất thời đại được vạch ra từ Cách mạng Tháng Mười, đến nay vẫn không thay đổi, loài người vẫn đang trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những biến cố ở Liên Xô và Đông Âu tuy đã làm cho phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào thoái trào và ở một mức độ nào đó, sẽ làm kéo dài tiến trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng những nước xã hội chủ nghĩa còn lại vẫn khẳng định sức sống của mình, đã vượt qua thời điểm ngặt nghèo để tiếp tục tạo lập những tiền đề mới cho bước phát triển tiếp theo của chủ nghĩa xã hội trong quá trình cải cách, mở cửa, đổi mới (Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba…). Đó là những biểu hiện sinh động về một giai đoạn mới trong quá trình trưởng thành của chủ nghĩa xã hội, là minh chứng cho khả năng và nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội. Tương lai của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới phụ thuộc rất lớn và trực tiếp vào thắng lợi của những cuộc cải cách, đổi mới như thế. Điều đó đặt ra cho những người xã hội chủ nghĩa chân chính và các đảng mác-xít phải luôn tìm kiếm hình thức mới, nội dung mới cho chủ nghĩa xã hội, phù hợp với đặc điểm của mỗi nước và của thời đại. Việc vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin phải là một thể thống nhất không tách rời. Chỉ có trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trung thành và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, ra sức tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lên-nin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm phủ định, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin của các thế lực thù địch, mới xác định đúng đắn mục tiêu, con đường, biện pháp, hình thức, bước đi phù hợp của chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước.

Từ những điều kiện, tiền đề và khả năng hiện thực, chúng ta tin tưởng chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ vượt qua thử thách để có bước phát triển mới. Đúng như Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) đã nhận định: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội"(11). Chủ nghĩa xã hội được Cách mạng Tháng Mười khai sáng vẫn đang theo xu hướng tiến lên phía trước, tiếp tục phát triển trong lòng nhân loại, hấp thụ tinh hoa nhân loại và nở hoa kết trái cho nhân loại. Lý tưởng xã hội chủ nghĩa là bất diệt, là lý tưởng mà nhân loại tiến bộ vẫn đang hướng tới. Cùng với dòng chảy thời gian, từ thẳm sâu trong ký ức mỗi chúng ta, những giá trị Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại vẫn còn hiển hiện một cách sinh động trong đời sống của nhân loại, đó là những mục tiêu cao cả mà nhân loại tiến bộ đang đoàn kết và nỗ lực đấu tranh vươn tới: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.



(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t12, tr 300-301

(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t41, tr 3-4

(3) Lê Duẩn: Cách mạng Tháng Mười với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr 8

(4) Hồ Chí Minh: Sđd, t2, tr 280

(5) Hồ Chí Minh: Sđd, t12, tr 305

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr 125

(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 69

(8) V.I. Lê-nin: Sđd, t26, tr 174

(9) V.I. Lê-nin: Sđd, t45, tr 141

(10) V.I. Lê-nin: Sđd, t34, tr 258

(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 64-65