Kỷ nguyên số - Bối cảnh và cơ hội cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
TCCS - Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 79 năm Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2-9-1945 - 2-9-2024), bên cạnh việc khẳng định những thành tựu vĩ đại của đất nước trong 79 năm qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cho rằng, Việt Nam sẽ tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc(1). Từ đó đến nay, trong một số bài viết, bài phát biểu tại các sự kiện quan trọng, đồng chí Tổng Bí thư không chỉ tiếp tục đề cập, mà còn phân tích rất cụ thể về những hàm ý, nội hàm, cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; đồng thời đưa ra những định hướng chiến lược về vấn đề này.
Tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương cũng cho rằng, Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV có nhiều nội dung mới, điểm nhấn khác biệt so với Đại hội XIII, mang tầm chiến lược, lịch sử, có tính chất cương lĩnh để thực hiện trong giai đoạn tới; đánh dấu mốc quan trọng đặc biệt cho Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, phù hợp với yêu cầu của thời đại, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam(2).
Ban Chấp hành Trung ương cũng xác định, trong nhiệm kỳ Đại hội XIV, cần tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; phát huy sức mạnh văn hóa, con người và khối đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; phát triển nhanh, bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, thu nhập trung bình cao, có công nghiệp hiện đại vào năm 2030, thiết thực kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, hướng tới hiện thực hóa tầm nhìn đến năm 2045, hoàn thành mục tiêu 100 năm thành lập nước, đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao; tạo tiền đề vững chắc để đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới vì một Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Có thể thấy, trong những nội dung, vấn đề quan trọng liên quan đến kỷ nguyên vươn mình của dân tộc được đồng chí Tổng Bí thư cũng như Ban Chấp hành Trung ương đề cập, có một vấn đề được đề cập nhiều lần, đó là chuyển đổi số; coi đây là “động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”(3). Hay trong buổi trao đổi chiều ngày 31-10-2024 với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3) tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đồng chí Tổng Bí thư còn coi chuyển đổi số là cuộc cách mạng mà chúng ta cần thực hiện để “điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi do Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, đưa đất nước đi tắt đón đầu phát triển vượt bậc”.
Có một điều khá thú vị là khi chúng ta đề cập tới kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, nhân loại cũng đang đặc biệt quan tâm đến thuật ngữ kỷ nguyên số - kỷ nguyên được cấu thành bởi kinh tế số và xã hội số, gắn liền với một quá trình vận động mà chúng ta cũng đang rất quan tâm - quá trình chuyển đổi số.
Kỷ nguyên số và chuyển đổi số
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, thuật ngữ “kỷ nguyên số” hay “thời đại kỹ thuật số” (Digital Age) được hầu hết các tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng và ngày càng trở nên phổ biến. Thuật ngữ này dùng để chỉ một giai đoạn mới trong lịch sử nhân loại, với việc chuyển đổi từ ngành công nghiệp truyền thống mà 3 cuộc cách mạng công nghiệp trước đây đã mang lại thông qua công nghiệp hoá, sang giai đoạn công nghệ số trở thành nhân tố quan trọng của lực lượng sản xuất; đồng thời xác lập một phương thức sản xuất mới, tiên tiến, hiện đại, tạo động lực mới cho sự phát triển…
Kỷ nguyên số được cho là bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX, cùng với sự ra đời của máy tính cá nhân và việc sử dụng rộng rãi internet vào thập niên sau đó. Trong kỷ nguyên này, các hoạt động/quá trình xã hội, kinh tế và chính trị được hỗ trợ bởi các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), công nghệ kỹ thuật số như: máy tính, thư điện tử (email), Internet, trò chơi điện tử, video... Trong những năm gần đây, kỷ nguyên số được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bởi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, gắn với quá trình chuyển đổi số toàn diện. Kỷ nguyên số cũng làm xuất hiện những dạng thức mới trong đời sống xã hội của thế giới đương đại, như đời sống số, tri thức số, văn hóa số, chính phủ số, đô thị số, công dân số… Đây cũng được xem là những yếu tố có thể tạo nên những tác động sâu sắc tới sự phát triển, vận động của thế giới cũng như của từng quốc gia, doanh nghiệp, người dân trong nhiều thập niên tới…
Kỷ nguyên số được cấu thành bởi 2 yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau, đó là kinh tế số và xã hội số. Tuy nhiên, 2 yếu tố này không phải là bất biến mà là quá trình động, gắn liền với chuyển đổi số (Digital Transformation) - việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau.
Trong đó, kinh tế số là nền kinh tế mà toàn bộ các hoạt động kinh tế đều dựa trên công nghệ số và nền tảng số. Kinh tế số cũng là cốt lõi của các loại hình kinh tế đang được lan tỏa như kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế thông minh, kinh tế tuần hoàn. Kinh tế số tạo điều kiện để tăng năng suất lao động, mở ra không gian tăng trưởng mới cho sự phát triển bền vững, bao trùm, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần tạo những nền tảng quan trọng cho phát triển bền vững.
Khi đề cập đến kinh tế số, người ta cũng thường nói tới chuyển đổi số nền kinh tế. Đây là quá trình thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp số, các ngành công nghiệp dựa trên số và phát triển thị trường dịch vụ - hàng hóa số, bao gồm thúc đẩy cạnh tranh và đổi mới trong ngành công nghiệp ICT; kích thích nhu cầu các hàng hóa, dịch vụ số thông qua tích hợp ICT vào hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp; thúc đẩy sự cạnh tranh và đổi mới của các doanh nghiệp nhỏ và vừa bằng ứng dụng ICT…
Về xã hội số. Đây là xã hội mà toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội cũng như cuộc sống của từng con người đều được ứng dụng và tích hợp công nghệ số; làm thay đổi mọi phương diện của tổ chức xã hội, từ chính phủ, cộng đồng tới từng người dân. Chuyển đổi số xã hội tập trung vào việc ứng dụng công nghệ số để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm khoảng cách xã hội và địa lý, giảm chi phí cuộc sống, hiện thực hóa quyền lợi người dân,… trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hóa, an toàn an ninh xã hội…
Xã hội số gồm 3 yếu tố cơ bản nhất là chính phủ số, văn hóa số và công dân số. Trong đó:
- Chính phủ số là bộ máy chính quyền sử dụng công nghệ số, ICT vào việc quản lý, điều hành để xây dựng nền hành chính khoa học, hiệu quả, minh bạch, dân chủ; xây dựng đô thị thông minh, nông thôn văn minh… Chuyển đổi số trong cơ quan chính phủ hướng tới cung cấp dịch vụ công thuận tiện cho người dân, tăng cường sự tham gia của người dân trong các hoạt động của cơ quan nhà nước; tăng cường hiệu quả hoạt động và đổi mới trong các cơ quan nhà nước; phát triển dữ liệu mở của các cơ quan này để tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
- Trong xã hội số, văn hóa số là các quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức và sự hưởng thụ các giá trị văn hóa của con người trong môi trường số.
- Công dân số là công dân thành thục công nghệ số, có khả năng truy cập các nguồn thông tin số, có khả năng giao tiếp theo chuẩn mực đạo đức trong môi trường số, thực hiện quyền và trách nhiệm trong môi trường số, có kỹ năng cần thiết để sử dụng công nghệ số hiệu quả phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân và phục vụ cộng đồng.
Cùng với đó, khi đề cập tới kỷ nguyên số hay chuyển đổi số, người ta cũng nhấn mạnh tới những yếu tố có vai trò nền tảng như hạ tầng số, lực lượng lao động số, các hoạt động nghiên cứu công nghệ số và đặc biệt là môi trường pháp lý cho sự vận hành và phát triển của kinh tế số, xã hội số… Trong đó, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số bao gồm mạng Internet và những công nghệ quan trọng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như điện toán đám mây (cloud computing), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI)… Việc phát triển hạ tầng số bao gồm cả phát triển hạ tầng vật lý và phát triển hệ sinh thái tạo điều kiện cho các hoạt động số.
Trong kỷ nguyên số, lực lượng lao động phải là lực lượng lao động số. Đây là lực lượng có đầy đủ năng lực và kỹ năng số theo chuẩn quốc tế và có khả năng sử dụng công nghệ một cách đầy đủ, sáng tạo để áp dụng cho công việc.
Cùng với đó, để kinh tế số và xã hội số phát triển, hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ số cũng có vai trò rất quan trọng. Hoạt động này bao gồm: tăng cường các hoạt động nghiên cứu về các giải pháp công nghệ mới, chủ đề nghiên cứu mới; có chiến lược phát triển hạ tầng nghiên cứu số như mở rộng nguồn tài liệu, kho dữ liệu, ứng dụng, dịch vụ để hỗ trợ và bổ trợ cho các hạ tầng điện tử khác…
Đặc biệt, để bảo đảm môi trường an toàn, tin cậy, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số và xã hội số, cần có các chính sách về an toàn an ninh thông tin; chính sách bảo vệ quyền sở hữu, thông tin riêng tư trên các nền tảng số; chính sách chấp nhận các nguyên tắc quốc tế về thông tin công; chính sách coi dữ liệu là tài sản để quản lý; chính sách quốc gia về định danh an toàn bảo mật; chính sách về công nghệ tài chính (Fintech), thương mại điện tử, thanh toán điện tử…; chính sách cho các lĩnh vực như chính phủ số, giáo dục số, y tế số, kinh tế số…
Như chúng ta đã biết, kỷ nguyên số không phải là một kết quả có sẵn mà là thành quả của cả một quá trình vận động, chuyển đổi không ngừng theo hướng số hóa, dựa vào kỹ thuật số. Trong quá trình đó, những lợi ích mang lại từ chuyển đổi số là rất lớn. Một trong những lợi ích dễ thấy nhất của chuyển đổi số là loại bỏ các công đoạn, công việc gây lãng phí thời gian một cách không cần thiết. Điều đó được thực hiện thông qua việc triển khai công nghệ kỹ thuật số, sử dụng phần mềm để tiến hành những công việc mà trước đây con người phải làm thủ công. Việc tự động hóa quy trình nghiệp vụ thường được coi là bước đệm để chuyển đổi số toàn diện hơn, đồng thời cũng là một trong những kết quả của chuyển đổi số. Cùng với đó, việc đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ thông qua chuyển đổi số, nhất là trong việc thực hiện các công việc có khối lượng lớn, tính chất lặp lại với độ chính xác cao hơn, thời gian nhanh hơn,… sẽ giúp tổ chức cung cấp dịch vụ nâng cao hiệu quả hoạt động, thậm chí có thể cắt giảm nhiều nhân lực.
Ở góc độ của người thụ hưởng dịch vụ, thông qua chuyển đổi số, họ cũng sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí hơn; có điều kiện tiếp cận các dịch vụ và sự hỗ trợ thông qua các phương thức tương tác ưa thích. Chẳng hạn như thông qua khai thác hiệu quả các công cụ kỹ thuật số, tổ chức có thể thiết lập hệ thống hỗ trợ đa kênh, cho phép khách hàng, người sử dụng dịch vụ liên hệ, trò chuyện trực tiếp trên trang web, email, ứng dụng dành cho thiết bị di động hoặc thông qua diễn đàn được hỗ trợ bởi AI. Qua đó, các tổ chức có thể theo dõi các tương tác, nắm bắt và thu thập phản hồi từ khách hàng, từ đó xử lý, đưa ra các giải pháp được cá nhân hóa.
Tương tự, các tổ chức có thể sử dụng những công cụ và quy trình kỹ thuật số để giúp đối tượng dễ dàng tiếp cận thông qua hệ thống dịch vụ trực tuyến, thương mại điện tử và các nền tảng di động và những công cụ kỹ thuật số khác…
Nếu như những lợi ích trên là rất dễ nhìn thấy và cảm nhận, thậm chí được xem là “thước đo” của chuyển đổi số thì cải thiện việc ra quyết định được xem là hiệu quả nội tại quan trọng nhất của tiến trình này. Theo đó, việc thực hiện các quy trình kỹ thuật số có khả năng xác định rõ những điểm mạnh và những điều tổ chức cần phải cải thiện. Tất cả dữ liệu được lưu trữ dưới dạng kỹ thuật số, thường là trong thời gian thực, làm cho việc nhận dạng các mẫu và xác định cơ hội cải tiến dễ dàng hơn nhiều. Kho lưu trữ dữ liệu trung tâm cũng có thể được khai thác để hiểu rõ hơn về những điểm “tắc nghẽn” trong quy trình làm việc, những vấn đề thường xảy ra nhất, hiệu suất của nhân viên, sở thích - hành vi của khách hàng và nhiều lĩnh vực khác. Việc sử dụng các công cụ kỹ thuật số và phát triển các quy trình liên quan cũng sẽ giúp tổ chức dễ dàng hơn nhiều trong việc tạo báo cáo và xác định các lĩnh vực cần cải thiện so với việc khảo sát, lấy mẫu và thu thập phản hồi thủ công.
Các tổ chức cũng có thể thúc đẩy hiệu quả việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ thông qua tích hợp các công cụ kỹ thuật số, điều chỉnh các quy trình hiện có từ việc thiết lập các điểm kiểm tra kỹ thuật số hoặc tự động hóa quy trình và giám sát đầu ra thông qua các thiết bị IoT. Với nhiều dữ liệu hơn và quy trình xử lý dữ liệu được tối ưu hóa, việc ra quyết định sẽ không chỉ nhanh hơn mà còn có chính xác hơn.
Ngoài ra, một lợi ích quan trọng khác của chuyển đổi số là phá vỡ các hệ thống hạn chế và tận dụng các giải pháp thay thế hiện đại. Trên thực tế, các quy trình được đưa ra dựa trên công nghệ cũ thường có độ trễ so với thực tế, đòi hỏi đầu vào thủ công và điều này có thể tạo ra những “điểm nghẽn”, nhất là khi khối lượng công việc tăng đột biến. Trong khi đó, các quy trình dựa trên công nghệ số có khả năng tích hợp cao hơn, dễ kết nối các bộ phận khác nhau trong nội bộ, bảo đảm sự vận hành thông suốt và linh hoạt, từ đó nâng cao hiệu quả. Chuyển đổi số cũng cho phép các tổ chức phản ứng nhanh hơn với những xu hướng mới, nhất là xu hướng luôn thay đổi của thị trường.
Với các công nghệ mới, điển hình như chuỗi khối (Blockchain), tính bảo mật, sự an toàn, tin cậy và minh bạch của dữ liệu nội bộ, dữ liệu khách hàng được bảo đảm ở mức độ cao hơn, từ đó làm giảm các rủi ro kỹ thuật số, giảm chi phí vận hành cho các hệ thống…
Con đường mới cho sự phát triển
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), chuyển đổi số chính là cơ hội chuyển đổi của thời đại chúng ta. Trong Báo cáo Tiến độ và Xu hướng kỹ thuật số 2023, định chế tài chính quốc tế này cho rằng, những tiến bộ đáng kể trong công nghệ số đã thúc đẩy những thay đổi mạnh mẽ, mở ra những con đường mới cho sự đổi mới, hiệu quả và hòa nhập, mang lại những lợi ích hữu hình và khả năng mới cho các cá nhân, tổ chức và quốc gia. Chuyển đổi số không còn là sự lựa chọn mà là điều cần thiết, vì nó nắm giữ nền tảng và tiềm năng để định hình một thế giới toàn diện hơn, kiên cường hơn và bền vững hơn cho các thế hệ mai sau.
Theo tính toán của WB, khi Internet tốc độ cao trở nên phổ biến, khả năng một cá nhân được tuyển dụng tăng lên tới 13,2%; tổng số việc làm trên mỗi công ty tăng lên tới 22% và xuất khẩu tăng gấp gần 4 lần. Trên khắp châu Phi, phạm vi phủ sóng 3G được cho rằng có liên quan trực tiếp với việc giảm 10% tình trạng nghèo đói cùng cực ở Senegal và 4,3% ở Nigeria. Phân tích và ra quyết định dựa trên dữ liệu cũng có thể thúc đẩy doanh số bán hàng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trở nên mạnh mẽ hơn. Công nghệ số cũng có thể giảm phát thải khí nhà kính tới 20% vào năm 2050 trong 3 lĩnh vực phát thải cao nhất gồm năng lượng, vật liệu và giao thông vận tải…
Riêng trong lĩnh vực dịch vụ ICT, báo cáo của WB cho biết đây là ngành động lực của đổi mới và tăng trưởng. Về đổi mới, từ năm 1980 đến năm 2021, số lượng bằng sáng chế được công bố trên toàn cầu trong lĩnh vực công nghệ máy tính tăng tới 27 lần. Số lượng bằng sáng chế được công bố trong các lĩnh vực ICT khác cũng tăng hơn 10 lần, cao hơn khoảng 5 lần so với mức tăng của các lĩnh vực công nghệ khác. Cùng với đó, ICT cũng là phân khúc sôi động nhất và phát triển nhanh nhất của nền kinh tế toàn cầu trong 2 thập niên qua. Tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm của giá trị gia tăng toàn cầu và việc làm cho các dịch vụ ICT lần lượt đạt 8% và 6,7% trong giai đoạn 2000 - 2022, vượt xa mức tăng trưởng 5,1% và 1,2% của nền kinh tế toàn cầu. Hầu hết các quốc gia đều có sự gia tăng mạnh mẽ về việc làm trong các dịch vụ ICT. Việc làm toàn cầu trong các dịch vụ ICT đã tăng gấp 4 lần trong giai đoạn 2000 - 2022.
ICT cũng là phân khúc dịch vụ năng động nhất của thương mại quốc tế trong thập niên qua, tạo ra con đường tăng trưởng do xuất khẩu dẫn đầu cho các quốc gia để mở rộng và đa dạng hóa nền kinh tế của họ. Cụ thể, trong giai đoạn 2010 - 2022, dịch vụ ICT tăng trưởng 12% mỗi năm, vượt qua tất cả các dịch vụ khác (riêng năm 2011 tăng trưởng tới 19%); đến năm 2022, đây là dịch vụ xuất khẩu lớn thứ ba, chỉ sau vận tải và du lịch… Trong khi đó, xuất khẩu hàng hóa ICT toàn cầu cũng tăng nhanh hơn tổng xuất khẩu hàng hóa, tăng từ 1.700 tỷ USD năm 2010 lên 2.900 tỷ USD vào năm 2021, chủ yếu nhờ xuất khẩu thiết bị truyền thông và chất bán dẫn.
Bối cảnh và cơ hội mới cho Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình
Là quốc gia đang tích cực hội nhập toàn diện, sâu rộng với thế giới, nhất là hội nhập về kinh tế, có thể nói, kỷ nguyên số, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như tiến trình chuyển đổi số mạnh mẽ trên toàn cầu trong giai đoạn hiện nay chính là bối cảnh, môi trường; đồng thời là cơ hội quan trọng cho sự phát triển của Việt Nam.
Để tận dụng được cơ hội đó, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có những định hướng quan trọng trong xây dựng chính sách và một số chương trình để chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cụ thể như: Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22-3-2018, của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhấn mạnh “khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, về "Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư" xác định: “chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội…”. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã có Nghị quyết số 50/NQ-CP, ngày 17-4-2020, ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị; ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 3-6-2020, phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”…
Theo đó, Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” xác định mục tiêu cơ bản là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu, với tầm nhìn đến năm 2030 là đưa Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp.
Từ quan điểm nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số; người dân là trung tâm của chuyển đổi số; thể chế và công nghệ là động lực của chuyển đổi số; phát triển nền tảng số là giải pháp đột phá để thúc đẩy chuyển đổi số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả; bảo đảm an toàn, an ninh mạng là then chốt để chuyển đổi số thành công và bền vững, đồng thời là phần xuyên suốt, không thể tách rời của chuyển đổi số; sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia của toàn dân là yếu tố bảo đảm sự thành công của chuyển đổi số…, Chính phủ xác định rõ 6 nhiệm vụ, giải pháp nhằm tạo nền móng chuyển đổi số bao gồm chuyển đổi nhận thức về sứ mệnh, sự cần thiết, tính cấp bách của chuyển đổi số trong xã hội; kiến tạo thể chế theo hướng khuyến khích, sẵn sàng chấp nhận sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số, thúc đẩy phương thức quản lý mới đối với những mối quan hệ mới phát sinh; phát triển hạ tầng số, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bùng nổ về kết nối và xử lý dữ liệu, các chức năng về giám sát mạng lưới đến từng nút mạng và bảo đảm an toàn, an ninh mạng được tích hợp sẵn ngay từ khi thiết kế, xây dựng; phát triển nền tảng số mang tính thúc đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số diễn ra một cách tự nhiên, khai mở giá trị mới, mang lại lợi ích rõ ràng cho xã hội; tạo lập niềm tin vào tiến trình chuyển đổi số, hoạt động trên môi trường số thông qua việc hình thành văn hóa số, bảo vệ các giá trị đạo đức căn bản và bảo đảm an toàn, an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân; thu hút nhân tài, hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp lớn trên thế giới để nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo.
Chương trình cũng xác định các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể về chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phát triển Chính phủ điện tử, hướng đến Chính phủ số. Trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; tạo lập dữ liệu mở dễ dàng truy cập, sử dụng, tăng cường công khai, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, thúc đẩy phát triển các dịch vụ số trong nền kinh tế; cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên thiết bị di động thông minh để người dân, doanh nghiệp có trải nghiệm tốt nhất về dịch vụ, nhanh chóng, chính xác, không giấy tờ, giảm chi phí; cải thiện chỉ số xếp hạng quốc gia về Chính phủ điện tử.
Cùng với đó, thúc đẩy phát triển kinh tế số với trọng tâm là phát triển doanh nghiệp công nghệ số, chuyển dịch từ lắp ráp, gia công về công nghệ thông tin sang làm sản phẩm công nghệ số, công nghiệp 4.0, phát triển nội dung số, công nghiệp sáng tạo, kinh tế nền tảng, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử và sản xuất thông minh. Thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Về phát triển xã hội số, tập trung vào chuyển đổi kỹ năng, cung cấp các khóa học đại trà trực tuyến mở, hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp lớn trên thế giới để đào tạo, tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng về công nghệ số và chuyển đổi số, hình thành văn hóa số. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số để phát triển xã hội số, không ai bị bỏ lại phía sau.
Chương trình Chuyển đổi số quốc gia cũng xác định 8 lĩnh vực cần ưu tiên chuyển đổi số trước, bao gồm: y tế, giáo dục, tài chính - ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải và logistics, năng lượng, tài nguyên và môi trường, sản xuất công nghiệp. Trong đó, cần chú trọng việc triển khai các sáng kiến nhằm liên kết giữa các ngành, lĩnh vực để cung cấp một trải nghiệm mới, hoàn toàn khác, mang lại giá trị cho người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Cụ thể hóa những định hướng của Đảng, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện chuyển đổi số đã được triển khai quyết liệt, đồng bộ với quyết tâm cao từ Trung ương đến cơ sở. Giai đoạn 2021 - 2024, Quốc hội đã ban hành 3 luật liên quan (Luật Viễn thông, Luật Giao dịch điện tử, Luật Căn cước); Chính phủ đã ban hành 19 nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành 43 quyết định, 14 chỉ thị, 4 công điện và các bộ, ngành đã ban hành theo thẩm quyền nhiều văn bản hướng dẫn chuyển đổi số và triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06).
Với những chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động, chuyển đổi số quốc gia ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Theo thông tin tại Hội nghị Thường trực Chính phủ về chuyển đổi số với các bộ, ngành, địa phương tổ chức vào tháng 7-2024, thời gian qua, Chính phủ số tiếp tục có bước phát triển. Cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp được đẩy mạnh (đã có 16,4 triệu tài khoản trên Cổng Dịch vụ công quốc gia; cung cấp 4.543/6.325 thủ tục hành chính, 43/53 dịch vụ công thiết yếu của Đề án 06).
Bên cạnh đó, kinh tế số, xã hội số tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Sản phẩm số của doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển và xuất khẩu đi khắp thế giới. Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu sản phẩm số tăng từ 113,5 tỷ USD năm 2021 lên 117,3 tỷ USD năm 2023; 6 tháng năm 2024 đạt 64,9 tỷ USD, tăng 23%. Doanh thu phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin tăng khá (năm 2023 đạt 13 tỷ USD; 6 tháng đầu năm 2024 đạt 6 tỷ USD); xuất khẩu năm 2023 đạt 7,5 tỷ USD; 6 tháng đầu năm 2024 đạt gần 3 tỷ USD. Nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới đã đầu tư lớn tại Việt Nam, cam kết đầu tư mới và mở rộng đầu tư, nhất là trong lĩnh vực mới như điện tử, chip bán dẫn, nghiên cứu phát triển, AI...
Số hóa các ngành kinh tế, công tác chuyển đổi số trong quản lý, đầu tư xây dựng, sản xuất được triển khai mạnh mẽ. Doanh thu thương mại điện tử tăng từ 13,7 tỷ USD năm 2021 lên 20,5 tỷ USD năm 2023. Thanh toán không dùng tiền mặt được triển khai rộng khắp trên phạm vi cả nước. Tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản thanh toán đạt 87%, vượt mục tiêu năm 2025 là 80%. Hiện có 9,13 triệu khách hàng sử dụng Mobile Money, trong đó 72% số khách hàng tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Hệ thống thuế điện tử được xây dựng đồng bộ từ đăng ký thuế đến khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế điện tử và triển khai Hệ thống hoá đơn điện tử trên toàn quốc (xử lý 8,8 tỷ hóa đơn).
Chuyển đổi số phục vụ người dân, an sinh xã hội có bước phát triển mạnh mẽ, như đăng ký thi tốt nghiệp trung học phổ thông, đăng ký xét tuyển trực tuyến trong giáo dục; liên thông dữ liệu khám sức khỏe lái xe, giấy chứng sinh, khai tử...; trong bảo hiểm xã hội (trong cao điểm đại dịch COVID-19, trong 1 tháng đã chi trả 31.836 tỷ đồng cho trên 13,3 triệu lượt người lao động qua hệ thống điện tử); 63/63 địa phương thực hiện chi trả an sinh xã hội qua tài khoản cho 1,96 triệu người với số tiền trên 8.280 tỷ đồng.
Đến nay, các cơ sở dữ liệu mang tính nền tảng như: dân cư, thuế, bảo hiểm, doanh nghiệp, giáo dục và đào tạo,... đã đi vào vận hành ổn định, mang lại hiệu quả tích cực; hạ tầng số, nền tảng số được quan tâm đầu tư và có bước phát triển; 100% số xã, phường, thị trấn kết nối internet cáp quang…
Những kết quả trong chuyển đổi số của Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao. Trong đó, chỉ số Chính phủ điện tử năm 2022 xếp hạng 86/193. Chỉ số Đổi mới sáng tạo luôn duy trì trong nhóm 50 nước dẫn đầu từ năm 2018 đến nay; năm 2023 xếp hạng 46/132. Chỉ số Bưu chính năm 2023 đạt cấp độ 6/10, xếp hạng 47/172…
Từ những phân tích trên, có thể thấy kỷ nguyên số - kỷ nguyên gắn liền với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tiến trình chuyển đổi số là một xu thế tất yếu. Kỷ nguyên này mang đến những cơ hội rất quan trọng cho sự phát triển của nhân loại nói chung, đất nước Việt Nam nói riêng trong hàng chục năm tới. Vấn đề đặt ra là các quốc gia, trong đó có Việt Nam, cần có những giải pháp phù hợp và hiệu quả để khai thác được cơ hội này. Với những kết quả đã đạt được trong thời gian qua và những định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước trong chuyển đổi số, chúng ta có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để tin rằng, “với thế và lực tích luỹ được sau 40 năm đổi mới đất nước; với những kết quả đã đạt được trong thời gian qua và những định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước trong chuyển đổi số, chúng ta có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để tin rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại”(4) như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định./.
--------------------------
(1) Xem: GS, TS Tô Lâm: Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, Tạp chí Cộng sản điện tử; https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/chuyen-doi-so-dong-luc-quan-trong-phat-trien-luc-luong-san-xuat-hoan-thien-quan-he-san-xuat-dua-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi
(2) https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/thong-bao-hoi-nghi-lan-thu-10-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-119240921103923213.htm
(3) Xem: GS, TS Tô Lâm: Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, Tạp chí Cộng sản điện tử; tlđd
(4) Xem: GS, TS Tô Lâm: Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, Tạp chí Cộng sản điện tử; tlđd
Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp các nhà khoa học, chuyên gia quốc tế dự Lễ trao Giải thưởng VinFuture lần thứ 4  (07/12/2024)
Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Chủ tịch Tập đoàn NVIDIA Jensen Huang  (07/12/2024)
Tổng Bí thư Tô Lâm thăm và làm việc tại tỉnh Ninh Thuận  (05/12/2024)
Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc  (05/12/2024)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm