TCCS - Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 mở ra tầm nhìn phát triển mới, nhấn mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tăng cường liên kết vùng. Với mục tiêu trở thành tỉnh kiểu mẫu và cực tăng trưởng phía Bắc, tỉnh Quảng Ninh định hướng không gian phát triển “Một tâm, hai tuyến đa chiều, hai mũi đột phá, ba vùng động lực”. Những kết quả nổi bật về phát triển kinh tế tỉnh thời gian qua, nhất là 10 tháng năm 2025 cho thấy hiệu quả bước đầu của quy hoạch. Trọng tâm giai đoạn tới là phát triển kinh tế di sản gắn với hoàn thiện hạ tầng, mở rộng không gian liên kết vùng, tạo động lực bứt phá cho toàn vùng Đông Bắc.

Ngày 11-2-2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 80/QĐ-TTg, phê duyệt Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tỉnh Quảng Ninh trở thành địa phương đầu tiên trong vùng đồng bằng sông Hồng hoàn thành việc lập và phê duyệt quy hoạch tỉnh. Quy hoạch vừa mang tính kế thừa những định hướng chiến lược đã được xác định từ 7 quy hoạch chiến lược trước đó, đồng thời xác định rõ các khâu đột phá trong giai đoạn mới. Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 xác định một tầm nhìn mới, khẳng định tính chất, vai trò, vị thế mới của tỉnh. Trong đó, ưu tiên tập trung phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi phương thức phát triển. Đồng thời, tổ chức không gian phát triển hợp lý nhằm bảo đảm mục tiêu liên kết, đồng bộ, phát huy thế mạnh của từng địa phương.

Theo đó, mục tiêu đến năm 2030 xây dựng, phát triển tỉnh Quảng Ninh trở thành tỉnh tiêu biểu của cả nước về mọi mặt; tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nâng cao đời sống của nhân dân; cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc; một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện; trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân giai đoạn 2021 - 2030 là 10%/năm, GRDP bình quân đầu người đạt 19.000 - 20.000 USD.

Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, với định hướng không gian phát triển “Một tâm, hai tuyến đa chiều, hai mũi đột phá, ba vùng động lực”, tỉnh chú trọng kiến tạo các hành lang giao thông gắn với các hành lang kinh tế, hành lang đô thị, đặc biệt là thúc đẩy liên kết nội vùng, liên kết vùng, bảo đảm các tiềm năng, thế mạnh, lợi thế so sánh trong tam giác động lực phía Bắc, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng được phát huy tối đa, bổ sung cùng phát triển.

Bứt tốc tăng trưởng và dư địa liên kết

Việc triển khai định hướng Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã mang lại kết quả tích cực với việc ghi nhận các chỉ tiêu kinh tế - tài chính, thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp và liên kết vùng.

Trong 10 tháng năm 2025, tổng thu ngân sách nhà nước của tỉnh đạt 69.117 tỷ đồng, bằng 125% dự toán Trung ương giao, bằng 121% dự toán tỉnh giao, tăng 57% so với cùng kỳ năm 2024. Các khoản thu đóng góp vào GRDP đạt 21.167 tỷ đồng, tăng 1% cùng kỳ; chi ngân sách nhà nước đạt 20.516 tỷ đồng, bằng 70% dự toán. Mục tiêu tổng thu ngân sách 2 tháng cuối năm 2025 ước thực hiện 13.049 tỷ đồng; cả năm ước đạt 82.166 tỷ đồng, bằng 151% dự toán Trung ương giao, bằng 146% dự toán tỉnh giao, tăng 55% so với cùng kỳ năm 2024. 

Trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp, lũy kế từ đầu năm đến ngày 30-10-2025, toàn tỉnh có 3.241 doanh nghiệp và đơn vị phụ thuộc, tăng 38,6% cùng kỳ năm 2024; 1.991 doanh nghiệp thành lập mới, đạt 99,55% kế hoạch năm 2025, tăng 28,7% cùng kỳ; số vốn đăng ký đạt 18.323,6 tỷ đồng. Thành lập mới 173 hợp tác xã, tăng 215% kế hoạch năm 2025, nâng tổng số hợp tác xã đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là 1.213; có 160 hợp tác xã đăng ký thay đổi giấy chứng nhận, 6 hợp tác xã giải thể. Hai tháng cuối năm 2025, mục tiêu thành lập mới từ 300 - 500 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới năm 2025 lên từ 2.300 - 2.500 doanh nghiệp (tăng 25% so với mục tiêu). 

Về lĩnh vực đầu tư công, tổng kế hoạch vốn đầu tư công tính đến ngày 28-10-2025 là 16.754 tỷ đồng, cao hơn 4.848 tỷ đồng so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao đầu năm; đã giải ngân 6.105 tỷ đồng, đạt 51,3% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, đạt 36,5% kế hoạch sau điều chỉnh, cao hơn cùng kỳ 32%. Dự kiến đến ngày 31-12-2025, toàn tỉnh giải ngân thêm tối thiểu khoảng 6.400 tỷ đồng, dự kiến cả năm là 12.500 tỷ đồng, đạt 105% kế hoạch. 

Kết quả đầu tư ngoài ngân sách, tỉnh đã phê duyệt chủ trương đầu tư/phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư 320 dự án đầu tư trong nước, tăng 473% so cùng kỳ năm 2024. Tổng vốn đầu tư đăng ký, điều chỉnh tăng khoảng 240.264 tỷ đồng; 2 tháng cuối năm 2025 dự kiến hoàn thiện thủ tục thẩm định chủ trương đầu tư/điều chỉnh chủ trương đầu tư 7 dự án trọng điểm và các dự án khác, với tổng vốn thu hút khoảng 263.053 tỷ đồng. Nguồn vốn FDI đạt 528,65 triệu USD, tương đương 13.460 tỷ đồng, bằng 25,8% cùng kỳ, đạt 52,9% kế hoạch năm. Dự kiến 2 tháng cuối năm 2025 thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho khoảng 10 - 12 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 400 - 440 triệu USD.

Trong lĩnh vực liên kết vùng, tỉnh đang triển khai xây dựng một số cơ chế, chính sách quan trọng tạo động lực đẩy mạnh phát triển liên kết vùng, cũng như tạo động lực tăng trưởng của tỉnh. Trọng tâm là xây dựng Đề án cơ chế, chính sách thí điểm phát triển Khu kinh tế Vân Đồn; triển khai xây dựng thỏa thuận khung thí điểm khu hợp tác ngành, nghề qua biên giới Móng Cái - Đông Hưng với 6 nội dung ngành, nghề hợp tác (công nghiệp, thương mại, dịch vụ cửa khẩu, logistics, trí tuệ nhân tạo) và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ các ngành, nghề hợp tác; hoàn thành Đề án thí điểm xây dựng cửa khẩu thông minh tại Cửa khẩu quốc tế Móng Cái (Việt Nam) - Đông Hưng (Trung Quốc)...(1).

Mở rộng không gian liên kết vùng, phát triển kinh tế

Một trong những mục tiêu chính trong Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là đẩy mạnh liên kết vùng. Đây là yếu tố then chốt để phát triển kinh tế bền vững tại tỉnh Quảng Ninh và các tỉnh lân cận, giúp tối ưu hóa nguồn lực và gia tăng giá trị kinh tế. Với những kết quả khả quan của tỉnh, để tiếp tục tạo động lực phát triển, đạt hiệu quả cao từ chiến lược liên kết vùng, tỉnh Quảng Ninh chú trọng thực hiện các giải pháp mang tính toàn diện, từ việc xây dựng cơ chế, chính sách đến cải thiện kết cấu hạ tầng và khai thác giá trị kinh tế di sản. Cụ thể:

Một là, hoàn thiện khung cơ chế và chính sách điều phối liên vùng.

Nền tảng của liên kết vùng cần bắt đầu từ cơ chế phối hợp thống nhất, minh bạch. Tỉnh Quảng Ninh cùng các tỉnh trong vùng xây dựng một chiến lược chung về phát triển kinh tế di sản, làm rõ vai trò của từng địa phương trong chuỗi giá trị. Một mô hình thích hợp là thành lập Ban Điều phối liên vùng phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế di sản, có chức năng xây dựng chương trình hành động liên vùng; điều phối và phân bổ nguồn lực; theo dõi tiến độ, đánh giá hiệu quả; bảo đảm cơ chế chia sẻ lợi ích công bằng.

Cùng với đó, ban hành các cơ chế ưu đãi đầu tư liên tỉnh, nhất là trong các dự án hạ tầng du lịch, bảo tồn di sản, đổi mới sản phẩm; đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị du lịch liên vùng, khuyến khích hợp tác công - tư trong việc phát triển các dự án có quy mô lớn.

Hai là, phát triển các tuyến du lịch liên vùng.

Liên kết các điểm đến di sản giữa các tỉnh sẽ tạo ra những tuyến du lịch có sức hút lớn và giá trị gia tăng cao. Trên cơ sở tài nguyên hiện có, vùng Đông Bắc có thể phát triển các tuyến chủ đề như: 1- Tuyến “Hành trình Phật giáo” kết nối các điểm di sản văn hóa và tâm linh như Yên Tử (tỉnh Quảng Ninh), chùa Bái Đính (tỉnh Ninh Bình) và chùa Hương (Thủ đô Hà Nội). Tuyến này không chỉ thu hút khách du lịch trong nước, mà còn hấp dẫn khách quốc tế, đặc biệt là từ các quốc gia Phật giáo; 2- Tuyến du lịch biển, đảo kết nối vịnh Hạ Long, đảo Cô Tô (tỉnh Quảng Ninh) và khu bảo tồn sinh quyển Cát Bà (tỉnh Hải Phòng). Tuyến này sẽ mang đến trải nghiệm kết hợp giữa khám phá thiên nhiên và văn hóa biển, đảo đặc sắc; 3- Tuyến du lịch văn hóa - lịch sử kết nối các di tích lịch sử và văn hóa quan trọng, như Bạch Đằng Giang (thành phố Hải Phòng), khu di tích Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh) và thành cổ Luy Lâu (tỉnh Bắc Ninh). Tuyến này giúp quảng bá các giá trị văn hóa lịch sử của vùng Đông Bắc. Bên cạnh đó, để vận hành hiệu quả các tuyến, các địa phương phối hợp nâng cấp hạ tầng giao thông kết nối, chuẩn hóa chất lượng dịch vụ, xây dựng thương hiệu chung và hợp tác trong công tác xúc tiến - quảng bá.

Ba là, đầu tư mạnh vào hạ tầng kết nối liên vùng.

Hạ tầng giao thông là yếu tố quyết định sự thành công của liên kết vùng trong phát triển kinh tế. Tỉnh Quảng Ninh đã có những bước tiến lớn trong đầu tư hạ tầng, với việc hoàn thành các tuyến cao tốc như Hạ Long - Hải Phòng - Hà Nội, Vân Đồn - Móng Cái và sân bay quốc tế Vân Đồn. Tuy nhiên, cần tiếp tục đầu tư mở rộng mạng lưới giao thông liên tỉnh, nâng cấp các tuyến đường kết nối đến các điểm di sản và các khu du lịch trọng điểm. Theo đó, tỉnh Quảng Ninh cần mở rộng mạng lưới giao thông kết nối các điểm di sản giữa Quảng Ninh - Hải Phòng - Bắc Ninh - Ninh Bình; nâng cấp cảng du lịch tại Cô Tô, Cát Bà, Hạ Long; cải thiện điều kiện vận tải đường thủy và đường hàng không phục vụ du lịch; đồng bộ hóa hạ tầng công nghệ, đặc biệt là internet tốc độ cao, hệ thống chỉ dẫn thông minh. Việc đầu tư có trọng tâm sẽ giúp rút ngắn thời gian di chuyển giữa các điểm đến, nâng cao trải nghiệm cho khách du lịch, hỗ trợ vận hành hiệu quả các tuyến du lịch liên vùng.

Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản trị và quảng bá di sản.

Khoa học - công nghệ mở ra hướng tiếp cận mới trong khai thác di sản. Các địa phương hợp tác xây dựng nền tảng số liên vùng cung cấp thông tin đồng bộ về hệ thống di sản, điểm đến, tuyến du lịch, sự kiện và dịch vụ. Theo đó, một số định hướng triển khai: Ứng dụng công nghệ thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) để tái hiện không gian di sản, gia tăng trải nghiệm trực tuyến; ứng dụng dữ liệu lớn (Big Data) để phân tích hành vi và nhu cầu của khách du lịch, giúp các địa phương đưa ra chiến lược phát triển sản phẩm du lịch phù hợp hơn; triển khai hệ thống quản lý đặt chỗ và thanh toán trực tuyến nhằm tạo thuận lợi cho khách du lịch trong việc lên kế hoạch và trải nghiệm các tuyến du lịch liên vùng; xây dựng bản đồ số du lịch liên vùng. Nền tảng số giúp liên kết dữ liệu giữa các địa phương, tối ưu quản lý, hỗ trợ quảng bá và tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch trong suốt hành trình.

Năm là, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao nhận thức về liên kết vùng.

Để bảo đảm sự bền vững trong liên kết vùng, cần nâng cao nhận thức của các bên liên quan, từ chính quyền địa phương, doanh nghiệp đến cộng đồng dân cư, về lợi ích và vai trò của liên kết vùng trong phát triển kinh tế di sản.  Các địa phương cần tăng cường đào tạo quản lý du lịch, quản lý di sản; bồi dưỡng kỹ năng phục vụ du khách, kỹ năng số; nâng cao năng lực ngoại ngữ, kiến thức văn hóa quốc tế; tập huấn cộng đồng tham gia phát triển du lịch bền vững.

Sáu là, thúc đẩy mô hình hợp tác công - tư trong phát triển hạ tầng và bảo tồn di sản.

Hợp tác công - tư (PPP) là mô hình hiệu quả để huy động nguồn lực phát triển kinh tế di sản. Các địa phương cần thu hút doanh nghiệp đầu tư hạ tầng du lịch, khu nghỉ dưỡng sinh thái, cảng du lịch; đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản; tạo cơ chế ưu đãi cho doanh nghiệp tham gia các dự án liên vùng; bảo đảm minh bạch và cơ chế chia sẻ rủi ro. PPP được vận hành hiệu quả sẽ giúp giảm gánh nặng ngân sách, đồng thời nâng cao tính chuyên nghiệp trong phát triển sản phẩm du lịch.

Bảy là, triển khai chiến dịch quảng bá hình ảnh du lịch liên vùng ra quốc tế.

Các địa phương trong vùng cần phối hợp tổ chức các chiến dịch quảng bá du lịch chung, tập trung vào các thị trường quốc tế tiềm năng, như Đông Bắc Á, châu Âu và Bắc Mỹ; tham gia các hội chợ du lịch quốc tế; phát triển chiến lược truyền thông số đa ngôn ngữ; tổ chức các sự kiện văn hóa - du lịch quy mô lớn theo chuỗi vùng.

Với những giải pháp trên, liên kết vùng trong phát triển kinh tế di sản tại Quảng Ninh và các tỉnh lân cận sẽ được thúc đẩy một cách hiệu quả hơn, không chỉ tối ưu hóa nguồn lực mà còn mang lại lợi ích kinh tế, văn hóa và xã hội bền vững. Với vị thế và tiềm năng sẵn có, tỉnh Quảng Ninh có thể trở thành hạt nhân kết nối, dẫn dắt sự phát triển kinh tế di sản của cả vùng Đông Bắc Việt Nam./.

-------------------

(1) Minh Yến: “Quảng Ninh chú trọng tạo động lực đẩy mạnh phát triển liên kết vùng”, Vietnamnet, ngày 5-11-2025, https://vietnamnet.vn/quang-ninh-chu-trong-tao-dong-luc-day-manh-phat-trien-lien-ket-vung-2460357.html