Tỉnh Quảng Ninh phát triển du lịch biển bền vững gắn với bảo vệ môi trường
TCCS - Tỉnh Quảng Ninh nằm ở địa đầu phía Đông Bắc nước ta với diện tích trên 12.000 km², trong đó biển, đảo chiếm 50% với hơn 2.000 hòn đảo, chiếm 2/3 số đảo của cả nước, hơn 600 danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử có giá trị cảnh quan và địa chất được xếp hạng. Những năm qua, cùng với phát triển kinh tế biển, tỉnh luôn nỗ lực thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường biển trong quá trình phát triển du lịch.
Những lợi thế của Quảng Ninh trong phát triển kinh tế biển
Là một “chân kiềng”, mũi nhọn trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tỉnh Quảng Ninh đang khẳng định tầm quan trọng và tính chiến lược của vùng biển, đảo trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, toàn vẹn lãnh thổ nước ta. Là tỉnh duy nhất của nước ta vừa có đường biên trên bộ, trên biển với Trung Quốc, trong tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước, Quảng Ninh là điểm nút quan trọng trong khu vực hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt - Trung”, hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore, khu vực hợp tác liên vùng Vịnh Bắc Bộ mở rộng và trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc.
Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 6-5-1993, của Bộ Chính trị, “Về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển” cách đây hơn 30 năm đã có những quyết sách quan trọng về tài nguyên biển, phát triển kinh tế biển đảo, đặt mục tiêu đưa Việt Nam thành một quốc gia mạnh về biển. Tiếp đó, Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 9-1-2007, của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” với trọng tâm đưa Việt Nam trở thành “quốc gia mạnh về biển”, “phát huy mọi tiềm năng từ biển”. Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, “Về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển tới năm 2030, tầm nhìn 2045” tiếp tục mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh và giàu từ biển, phát triển bền vững, phồn vinh, an toàn và an ninh, nhấn mạnh “việc phát triển bền vững kinh tế biển dựa trên tăng trưởng xanh”(1). Các chỉ tiêu về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ được yêu cầu theo chuẩn mực quốc tế, đạt mức thuộc nhóm nước trung bình cao trở lên trên thế giới… Thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh, thành phố ven biển gấp từ 1,2 lần trở lên so với thu nhập bình quân cả nước… Các nghị quyết của Trung ương về phát triển kinh tế biển, đảo nước ta cho thấy hướng đi chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội, “vươn ra biển lớn” của tỉnh Quảng Ninh là đòn bẩy để kích cầu đầu tư phát triển từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước... Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh phát triển đa ngành kinh tế gồm khai khoáng, nhiệt điện, du lịch, dịch vụ hàng hải, chế biến thủy sản, thực phẩm, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng...
Phát triển bền vững không chỉ là xu hướng mà đã trở thành định hướng chiến lược trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế hiện đại, trong đó có du lịch biển - ngành kinh tế tổng hợp có liên quan mật thiết đến tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái, giá trị văn hóa và đời sống cộng đồng ven biển. Đặc biệt, trong chiến lược phát triển kinh tế biển, tỉnh luôn chú trọng gắn với giữ gìn giá trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa vùng biển Quảng Ninh. Đồng thời, đẩy mạnh đầu tư bảo tồn và phát triển giá trị đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái biển, bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái từ đất liền ra biển và gắn bảo vệ môi trường biển với phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm, sự cố môi trường…
Tuy nhiên, tỉnh Quảng Ninh đang đứng trước những thách thức về phát triển kinh tế, bảo vệ quốc phòng - an ninh, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu trở thành mục tiêu chung của Việt Nam trong những năm tới. Đây là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với tổng thể nền kinh tế cả nước và đối với từng địa phương, trong đó có tỉnh Quảng Ninh.
Kinh tế biển được Tỉnh ủy Quảng Ninh xác định có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh. Thời gian qua, tỉnh đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, xây dựng và ban hành chương trình hành động, kế hoạch, tổ chức thực hiện, thành lập Ban Chỉ đạo phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Quảng Ninh. Tỉnh cũng chỉ đạo các cơ quan tham mưu, giúp việc, cơ quan chuyên môn xây dựng, tiếp tục ban hành các nghị quyết, chương trình hành động liên quan đến phát triển kinh tế biển, như Đề án phát triển nhanh, bền vững kinh tế biển Quảng Ninh giai đoạn 2030, tầm nhìn 2045; Phát triển du lịch Quảng Ninh thành trung tâm du lịch kết nối với khu vực và thế giới đến năm 2030, tầm nhìn 2045; Phát triển kinh tế thủy sản Quảng Ninh giai đoạn 2021 - 2030; xây dựng cơ chế, chính sách thí điểm phát triển khu kinh tế Vân Đồn…
Tỉnh ủy Quảng Ninh xác định phát triển bền vững kinh tế biển gắn chặt với phát triển dịch vụ tổng hợp ngày càng giữ vai trò chủ đạo. Du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn theo hướng phát triển kinh tế biển xanh, sử dụng một cách bền vững các nguồn tài nguyên biển và đại dương để tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế biển để cải thiện sinh kế và việc làm cho người dân, nhưng phải bảo đảm sức khỏe của hệ sinh thái đại dương, không đánh đổi tài nguyên, môi trường với tăng trưởng, phát triển du lịch bằng mọi giá.
Quảng Ninh ưu tiên xây dựng đồng bộ và nâng cấp hệ thống hạ tầng kinh tế biển đa mục tiêu, nhằm bảo đảm “lợi ích kép” trong phát triển. Đồng thời tổ chức lại không gian phát triển kinh tế biển trên cơ sở phân vùng không gian hợp lý, khoa học dựa vào hệ sinh thái và theo chức năng sử dụng biển, đảo và vùng ven biển, bảo đảm hài hòa lợi ích và giảm xung đột, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Phát triển và quản lý bền vững kinh tế biển theo phương thức quản trị biển dựa vào không gian, liên ngành, với sự tham gia thực chất của các cộng đồng dân cư, doanh nghiệp và các bên liên quan. Song song với đó, Quảng Ninh phát triển các ngành khai thác khoáng sản biển, năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển kiểu mới; huy động mọi nguồn lực, đa dạng hóa hình thức đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển và hoàn thiện hạ tầng cảng biển và dịch vụ cảng biển. Thúc đẩy phát triển du lịch bền vững, du lịch xanh theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm, đi đôi với bảo vệ và phát huy tối đa các lợi thế tự nhiên, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn cảnh quan và bảo vệ môi trường.
Thực trạng phát triển kinh tế biển ở tỉnh Quảng Ninh
Du lịch biển tiếp tục khẳng định vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Quảng Ninh.
Du lịch biển của tỉnh Quảng Ninh đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), giải quyết việc làm và mở rộng không gian phát triển kinh tế biển. Tỉnh đang thực hiện lộ trình đến năm 2030 trở thành trung tâm du lịch quốc tế và kinh tế biển với tốc độ tăng trưởng GRDP hằng năm trên 10%. Năm 2024, tỉnh đã đón 19 triệu lượt khách du lịch, trong đó có hơn 3,5 triệu lượt khách quốc tế, tăng gấp 1,7 lần so với năm 2023. Tổng doanh thu từ du lịch đạt khoảng 46.460 tỷ đồng(2). Đây là minh chứng rõ nét cho vai trò của du lịch biển trong việc tăng thu ngân sách địa phương, mở rộng nguồn thu từ dịch vụ, logistics, thương mại ven biển.
Tính đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 218 cơ sở lưu trú ven biển đáp ứng tiêu chuẩn; 140 khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 1-5 sao, trong đó có 20 khách sạn 5 sao, 25 khách sạn 4 sao 23 khách sạn 3 sao; bên cạnh đó, có 99 tàu thủy lưu trú du lịch với 02 tàu 3 sao, 54 tàu 2 sao, 24 tàu 1 sao; 18 tàu đạt tiêu chuẩn. Các dự án hạ tầng lớn, như: tuyến cao tốc Vân Đồn - Móng Cái (hoàn thành năm 2022), các bến du thuyền cao cấp, khu nghỉ dưỡng ven biển, như: FLC Hạ Long, Vinpearl Hạ Long, Premier Village Hạ Long Bay…, đã góp phần hoàn thiện hệ sinh thái du lịch biển, nâng cao khả năng tiếp cận và thu hút du khách(3).
Nhờ đầu tư đồng bộ vào hạ tầng, du lịch biển tỉnh Quảng Ninh không chỉ đáp ứng được nhu cầu dịch vụ cao cấp, mà còn tạo động lực lan tỏa, thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế liên quan, như logistics, vận tải biển, thương mại dịch vụ ven biển, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng giảm dần phụ thuộc vào khai thác than và công nghiệp nặng, tiến tới phát triển bền vững. Ngoài ra, tỉnh Quảng Ninh còn xây dựng các trung tâm du lịch trọng điểm tại Hạ Long, Cẩm Phả, Vân Đồn, Móng Cái, Uông Bí, Cô Tô. Tỉnh đặc biệt coi trọng bảo tồn, bảo vệ Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, Khu bảo tồn Vườn quốc gia Bái Tử Long, Khu bảo tồn biển Cô Tô, khu RamSar Đồng Rui...
Phát triển du lịch biển góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành
Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của du lịch biển cùng các dịch vụ phụ trợ đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh theo hướng hiện đại, bền vững. Cụ thể, năm 2023, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 4,7%; khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 51,9%; khu vực dịch vụ chiếm 30,7% trong cơ cấu GRDP của tỉnh. Đến năm 2024, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm còn 4,5%; khu vực công nghiệp, xây dựng giảm còn 50,8%; trong khi khu vực dịch vụ tăng lên 33,4%(4). Những con số này cho thấy, vai trò nổi bật của ngành dịch vụ, đặc biệt là du lịch biển trong việc mở rộng không gian kinh tế biển, thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ cao cấp, đồng thời góp phần giảm dần sự phụ thuộc vào các ngành công nghiệp nặng và nông nghiệp.
Tỉnh Quảng Ninh đã quan tâm đầu tư đa dạng hóa các sản phẩm du lịch biển. Đến năm 2024, toàn tỉnh có khoảng 62 sản phẩm du lịch. Không chỉ dừng lại ở tham quan, nghỉ dưỡng, du lịch biển tỉnh Quảng Ninh đang phát triển các sản phẩm mang tính trải nghiệm và sinh thái biển: lặn ngắm san hô, chèo thuyền kayak, câu mực đêm, khám phá đảo hoang, du lịch làng chài, tour văn hóa biển, đảo… Những sản phẩm này vừa gia tăng giá trị khai thác tài nguyên biển, vừa phù hợp với xu thế du lịch xanh và thân thiện với môi trường, một tiêu chí cốt lõi của phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các sự kiện văn hóa biển, như Festival Hạ Long, lễ hội ẩm thực Cô Tô, đua thuyền truyền thống Quan Lạn…, đã quảng bá thương hiệu du lịch biển hiệu quả, tạo động lực phát triển các ngành phụ trợ, như thủ công mỹ nghệ, ẩm thực, vận tải du lịch và truyền thống địa phương.
Thị trường khách quốc tế đến tỉnh Quảng Ninh ngày càng mở rộng, đặc biệt là các quốc gia có độ tiêu dùng cao, như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Đức, Ấn Độ, Australia… Khách quốc tế không chỉ đóng góp lớn vào tổng thu du lịch mà còn là lực kéo cho cải cách chất lượng dịch vụ, chuẩn hóa mô hình phục vụ theo chuẩn quốc tế góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển theo hướng dịch vụ, thương mại cao cấp. Sự xuất hiện thường xuyên của các tour du lịch tàu biển dài ngày cho thấy Quảng Ninh đang trở thành một “điểm đến trung tâm” trong bản đồ du lịch biển Đông Á.
Những thách thức về ô nhiễm môi trường khi phát triển kinh tế biển
Quảng Ninh đang phải đối mặt một thực tế, đó là những thách thức về ô nhiễm môi trường từ chất thải, khí thải của ngành công nghiệp than, điện, đóng tàu, diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp, suy thoái hệ sinh thái biển do xây dựng các dự án, cơ sở hạ tầng du lịch chưa phù hợp.
Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long được UNESCO hai lần công nhận, là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên của thế giới do Tổ chức New Open World đề cử bầu chọn, cũng chịu tác động tiêu cực trong phát triển du lịch - dịch vụ và cảng biển. Việc lấn biển, hình thành nên các khu công nghiệp, đô thị mới cũng ảnh hưởng tới hàng nghìn ha rừng ngập mặn phía Bắc thành phố vốn được xem như tấm màng lọc khổng lồ giữ cho vùng vịnh tránh khỏi ô nhiễm bởi bùn đất, rác bẩn xả xuống từ đầu nguồn trong mùa mưa lũ... Thực tế này đang là một trong những nguyên nhân góp phần làm biến đổi môi trường và khí hậu ở tỉnh Quảng Ninh. Trong chiến lược dài hạn nhằm quy hoạch chi tiết các vùng, ngành gắn với bảo vệ môi trường bền vững để ứng phó sự biến đổi khí hậu, tỉnh Quảng Ninh đang nỗ lực rà soát các quy hoạch, trên cơ sở đó điều chỉnh phù hợp theo tiêu chí phát triển bền vững, đặc biệt quan tâm một số lĩnh vực trọng điểm, như khai thác than, phát triển hạ tầng các khu vực đô thị và khu vực công nghiệp, phát triển cảng biển và kinh tế cảng biển, phát triển nuôi trồng thủy sản và du lịch dịch vụ; tăng cường công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường xuyên biên giới; hoạt động xuất nhập khẩu, gia công, chuyển tải phế liệu; giải quyết dứt điểm tình trạng suy thoái môi trường, ngập úng cục bộ tại các khu vực bị ảnh hưởng do hoạt động khai thác than, chế biến khoáng sản gây ra…
Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 10/NQ-TU, ngày 26-9-2022, của Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo đối với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, đảm bảo an ninh nguồn nước giai đoạn 2022 - 2030. Tỉnh đã hoàn thành Đề án nâng cao tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn giai đoạn 2019 - 2022. Cùng với đó, tỉnh cũng ban hành Bộ quy chuẩn kỹ thuật địa phương về môi trường, tạo cơ sở pháp lý quan trọng, bảo đảm định hướng lâu dài, xuyên suốt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, qua đó giúp nâng cao ý thức, trách nhiệm của các doanh nghiệp, cộng đồng về bảo vệ môi trường.
Hiện toàn tỉnh có 2.208ha nuôi cá biển với 15.000 ô lồng, tập trung ở các địa phương: Vân Đồn, Đầm Hà, Hải Hà, Cẩm Phả; diện tích vùng cửa sông bãi triều ven biển và mặt nước biển nuôi nhuyễn thể là 9.500ha, tăng 6.222ha so với năm 2013(5), với hình thức nuôi chủ yếu là giàn bè, lồng treo, hoặc nuôi trên bãi triều, tập trung tại các địa phương: Vân Đồn, Đầm Hà, Hải Hà, Quảng Yên, Móng Cái.
Để bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản, từ tháng 8-2020, tỉnh đã ban hành quy chuẩn kỹ thuật địa phương về vật liệu sử dụng làm phao nổi trong nuôi trồng thủy sản lợ, mặn trên địa bàn; theo đó đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, yêu cầu tổ chức, doanh nghiệp, người dân thực hiện chuyển đổi vật liệu nổi trong nuôi trồng thủy sản để bảo vệ môi trường bền vững, chuyển đổi hơn 6,15 triệu quả phao đạt quy chuẩn địa phương, đạt khoảng 98,5%.
Tỉnh Quảng Ninh còn tập trung thực hiện cải tạo hành lang sinh thái ven biển bằng cách tập trung triển khai các dự án cải tạo, phục hồi và trồng mới rừng ngập mặn ven biển và điều tra tài nguyên biển. Các ngành, đoàn thể, địa phương đã thực hiện trồng mới và trồng rừng bổ sung, phục hồi rừng kém chất lượng và chăm sóc, bảo vệ 1.290,39ha rừng ngập mặn, gồm: Trồng mới 240,56ha; trồng bổ sung, phục hồi rừng kém chất lượng 1.049,83ha; bảo vệ, đầu tư thiết lập các mô hình rừng bền vững có sự tham gia của cộng đồng là 18.994ha; thực hiện hai dự án điều tra tài nguyên biển(6)…
Để phục hồi và phát triển các hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển tại vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, vùng biển Cô Tô - Đảo Trần, tỉnh từng bước thả rạn nhân tạo, phấn đấu đến năm 2030 trồng phục hồi thêm khoảng 30 - 50ha. Đến nay, Quảng Ninh đã thiết lập bãi rạn với 510 cấu kiện bê tông và tạo dựng bãi rạn nhân tạo để trồng cấy san hô với tỷ lệ sống trung bình sau 12 tháng là 83,6%.
Đồng thời, trên địa bàn tỉnh còn khoanh vùng 16 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản quý hiếm, đặc thù có giá trị kinh tế và dinh dưỡng rất cao, gồm: 8 khu vực bảo vệ nguồn lợi sá sùng và giao quyền quản lý cho tổ chức cộng đồng khai thác và bảo vệ nguồn lợi sá sùng với tổng diện tích là 2.844ha; khoanh vùng 6 khu vực bảo vệ nguồn lợi ngán, tổng diện tích 625ha; khoanh vùng 2 khu vực bảo vệ nguồn lợi rươi với diện tích 60ha(7).
Để ứng phó sự cố môi trường biển, Ủy ban nhân dân tỉnh đã cho phép 2 đơn vị có đủ chức năng ứng phó sự cố tràn dầu hoạt động theo hình thức xã hội hóa, bao gồm: Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam và Trung tâm Ứng phó sự cố tràn dầu Đông Bắc Bộ - Chi nhánh Công ty Cổ phần tư vấn đầu tư công trình hàng hải Việt Nam. Nhờ sự tích cực, chung tay của cấp ủy, chính quyền các cấp, doanh nghiệp và người dân, môi trường biển ở tỉnh Quảng Ninh ngày càng được cải thiện, góp phần tạo sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Tỉnh cũng ban hành kế hoạch khuyến khích phát triển du lịch sinh thái, du lịch thân thiện với môi trường, du lịch cộng đồng trên cơ sở không làm ảnh hưởng đến các hệ sinh thái và tài nguyên rừng, biển, góp phần tích cực vào nỗ lực giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng đối với du lịch. Tỉnh tuyên truyền, yêu cầu các tổ chức, cá nhân không mang và sử dụng các sản phẩm từ nhựa dùng một lần khi tham quan Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long; tăng cường sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường, làm bằng vật liệu có nguồn gốc hữu cơ hoặc có thể dùng nhiều lần; hạn chế sử dụng túi nilon, ống hút nhựa, cốc nhựa dùng một lần và các sản phẩm khó phân hủy trong các hoạt động kinh doanh dịch vụ phục vụ khách du lịch, tiến tới hình thành các khu du lịch, dịch vụ biển, đảo không sử dụng các sản phẩm nhựa dùng một lần.
Giải pháp phát triển du lịch biển trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức xã hội cho cán bộ, đảng viên, người dân và doanh nghiệp về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ môi trường, các quy định về bảo vệ môi trường. Thống nhất nhận thức, coi nhiệm vụ bảo đảm an ninh môi trường trở thành ý thức hành động tự giác trong nếp sống văn hóa của mỗi người, gắn kết chặt chẽ an ninh môi trường với các hoạt động kinh tế, xã hội.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch biển gắn kết chặt chẽ với Chiến lược phát triển kinh tế biển quốc gia, Quy hoạch tổng thể quốc gia và Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030. Quy hoạch phải bảo đảm tính tích hợp liên ngành, liên vùng với tầm nhìn dài hạn và chiến lược, lấy phát triển bền vững làm trọng tâm, bảo vệ môi trường là quan trọng. Trong đó, cần xác định rõ các vùng phát triển ưu tiên, như: Vịnh Hạ Long - Tuần Châu, huyện đảo Cô Tô, Vân Đồn, Móng Cái… để tập trung nguồn lực đầu tư công - tư, tránh tình trạng phát triển dàn trải, manh mún, gây lãng phí nguồn lực và xung đột không gian sử dụng, ảnh hưởng tới môi trường.
Thứ ba, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản phẩm và ngành nghề trong phát triển du lịch biển theo hướng gia tăng giá trị nội tại và kết nối chuỗi giá trị kinh tế biển. Phát triển các sản phẩm du lịch có hàm lượng tri thức, công nghệ và văn hóa cao, như: du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng biển, du lịch chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, du lịch học đường về biển nhằm kết hợp khai thác kinh tế với giáo dục và bảo tồn biển. Các loại hình du lịch này không chỉ nâng cao giá trị gia tăng mà còn góp phần thay đổi cấu trúc thu nhập vùng ven biển từ ngư nghiệp đơn thuần sang dịch vụ hiện đại, thân thiện môi trường. Đồng thời, khuyến khích liên kết du lịch biển với các ngành khác, như thủ công mỹ nghệ, công nghiệp văn hóa, logistics biển nhằm phát triển đa ngành và giảm rủi ro phụ thuộc vào mô hình du lịch truyền thống.
Thứ tư, tăng cường công cụ chính sách kinh tế môi trường trong bảo vệ tài nguyên biển - yếu tố nền tảng cho phát triển du lịch biển bền vững. Tỉnh cần áp dụng cơ chế định giá dịch vụ hệ sinh thái biển, thiết lập quỹ bảo vệ môi trường biển từ nguồn thu du lịch, triển khai các mô hình thuế môi trường du lịch, phí vào đảo, hoặc ưu đãi cho doanh nghiệp đạt chuẩn xanh. Đồng thời, hoàn thiện hệ thống pháp luật và giám sát môi trường biển, xử lý nghiêm các hành vi xả thải trái phép, lấn biển không phép, vi phạm quy hoạch vùng bờ. Việc bảo vệ môi trường biển cần được thực hiện không chỉ bởi chính quyền mà cần có sự tham gia chủ động của doanh nghiệp và cộng đồng - những chủ thể hưởng lợi từ phát triển du lịch.
Thứ năm, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại nguồn nhân lực phục vụ du lịch biển theo hướng chính quy, chuyên nghiệp, gắn với phát triển kinh tế tri thức biển. Cần xây dựng hệ sinh thái đào tạo - sử dụng nhân lực du lịch biển, gồm: đào tạo nghề cho lao động ven biển, nâng cao trình độ quản trị du lịch biển, kỹ năng ngoại ngữ, ứng xử văn hóa, và kiến thức về môi trường biển. Đồng thời, cần có chính sách ưu tiên đào tạo lực lượng nhân lực bản địa, tạo điều kiện để người dân địa phương tham gia sâu vào chuỗi giá trị du lịch, từ đó gắn kết giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội, một trụ cột quan trọng của phát triển bền vững.
Thứ sáu, hoàn thiện cơ chế phân phối lợi ích trong phát triển du lịch biển. Tỉnh cần xây dựng các mô hình quản trị đồng thuận trong du lịch biển, thúc đẩy hợp tác công - tư, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Cơ chế phân phối lợi ích nên gắn với chỉ số đóng góp xã hội - môi trường của doanh nghiệp (ESG); đồng thời, có chính sách hỗ trợ các cộng đồng địa phương, đặc biệt là ngư dân chuyển đổi ngành nghề, tham gia dịch vụ du lịch biển, như homestay, hướng dẫn viên cộng đồng, vận tải ven biển… Việc phân bổ lại lợi ích công bằng không chỉ tạo động lực nội sinh mà còn giảm mâu thuẫn xã hội, tăng tính ổn định của mô hình phát triển.
Thứ bảy, coi trọng và phát huy vai trò của cộng đồng địa phương - chủ thể trung tâm trong phát triển du lịch biển bền vững. Cấp ủy, chính quyền các cấp cần triển khai các chương trình giáo dục công dân biển, nâng cao nhận thức về vai trò chủ thể của người dân trong bảo vệ môi trường, gìn giữ văn hóa biển và phát triển du lịch có trách nhiệm. Tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia hoạch định chính sách, giám sát thực hiện và cùng hưởng lợi từ phát triển.
Để tiếp tục đánh thức tiềm năng, thế mạnh của biển, tỉnh đang tập trung rà soát, hiện thực hóa các quy hoạch, quan điểm phát triển theo hướng tăng trưởng xanh; xây dựng, phát triển tỉnh Quảng Ninh trở thành một trung tâm kinh tế biển bền vững của cả nước, cửa ngõ trung chuyển hướng biển của khu vực trên cơ sở phát triển du lịch - dịch vụ kết nối khu vực và quốc tế; là một trong những trung tâm logistics trọng điểm của cả nước. Cùng với đó, tỉnh tiếp tục dành nguồn lực, ưu tiên xây dựng đồng bộ và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng đa mục tiêu, nhằm bảo đảm “lợi ích kép” trong phát triển. Tiếp tục triển khai các giải pháp quảng bá thương hiệu, định vị thương hiệu hệ thống cảng biển Quảng Ninh đến các hãng tàu lớn, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ cảng biển trên thế giới. Qua đó, tăng tốc phát triển từng ngành, lĩnh vực kinh tế biển, đóng góp chung cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh theo hướng bền vững. Đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế biển, tỉnh luôn chú trọng gắn với giữ gìn giá trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa vùng biển Quảng Ninh./.
---------------------------
(1) Xem: Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-36-nqtw-ngay-22102018-hoi-nghi-lan-thu-tam-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-ve-chien-luoc-phat-trien-ben-481
(2) Xem: “Quảng Ninh hoàn thành chỉ tiêu đón 19 triệu lượt khách năm 2024”, Cục Du lịch quốc gia Việt Nam, ngày 16-12-2024, https://vietnamtourism.gov.vn/post/60178
(3) Xem: Vũ Hoàng Sơn: “Phát triển du lịch biển bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”, Tạp chí Quản lý Nhà nước và Lao động điện tử, ngày 19-6-2025, https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/06/19/phat-trien-du-lich-bien-ben-vung-tren-dia-ban-tinh-quang-ninh/
(4) Xem: “Họp báo Họp báo công bố số liệu thống kê kinh tế - xã hội tỉnh năm 2024”, Cổng thông tin điện tử An toàn giao thông tỉnh Quảng Ninh, ngày 6-1-2025, https://quangninh.gov.vn/chuyen-de/antoangiaothong/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid=149286
(5) Xem: Thu Nguyệt: “Nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường biển”, Báo Quảng Ninh điện tử, ngày 3-12-2024, https://baoquangninh.vn/nang-cao-hieu-qua-bao-ve-moi-truong-bien-3332474.html
(6), (7) Xem: Thu Nguyệt: Đẩy mạnh hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu, Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh, ngày 20-3-2025, https://quangninh.gov.vn/chuyen-de/diemden/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid=152314
Phát triển bền vững du lịch biển, đảo, góp phần bảo đảm sinh kế cho cư dân vùng biển, đảo tỉnh Quảng Ninh  (06/11/2025)
Bảo vệ môi trường biển, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên - nền tảng cho phát triển kinh tế biển bền vững ở tỉnh Quảng Ninh  (30/10/2025)
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm