Phát triển bền vững du lịch biển, đảo, góp phần bảo đảm sinh kế cho cư dân vùng biển, đảo tỉnh Quảng Ninh

NGUYỄN THỊ THANH THÚY
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
23:03, ngày 06-11-2025

TCCS - Với việc sở hữu vùng biển rộng lớn cùng nhiều di sản văn hóa và thiên nhiên có giá trị nổi bật toàn cầu, tỉnh Quảng Ninh có nhiều tiềm năng, lợi thế so sánh trong phát triển du lịch. Thời gian qua, tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều hoạt động thiết thực, hiệu quả để phát triển ngành kinh tế biển quan trọng này, góp phần bảo đảm sinh kế cho cư dân vùng biển, đảo, xây dựng địa phương trở thành trung tâm kinh tế biển mạnh của vùng và cả nước.

1- Nằm ở vùng Đông Bắc Tổ quốc, tỉnh Quảng Ninh có chiều dài đường bờ biển hơn 250km và 2.077 hòn đảo (chiếm phần lớn số đảo của cả nước), trên 40.000ha bãi triều và hơn 20.000ha diện tích eo biển và vịnh, nhiều danh thắng như Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, đảo Cô Tô, Quan Lạn… Đặc biệt, Vịnh Hạ Long được UNESCO vinh danh 3 lần là Di sản thiên nhiên thế giới với những giá trị cảnh quan và địa chất, địa mạo độc đáo. Vịnh Bái Tử Long có hơn 600 hòn đảo lớn, nhỏ, Vườn quốc gia Bái Tử Long cùng 3 cụm đảo chính là Ba Mùn, Trà Ngọ, Sậu và di tích thương cảng Vân Đồn là những điểm đến nổi tiếng cùng hệ sinh thái biển đa dạng, có giá trị kinh tế, khoa học lớn.

Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh còn lưu giữ được hơn 600 di sản văn hóa vật thể (đình, chùa, đền, miếu, danh lam thắng cảnh…); gần 400 di sản văn hóa phi vật thể (lễ hội, phong tục, tập quán, trò chơi dân gian...), trong đó có 8 di tích quốc gia đặc biệt; 12 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; hơn 100 lễ hội. Các lễ hội văn hóa, lịch sử truyền thống được các địa phương huy động các nguồn lực tổ chức hiệu quả, trở thành điểm đến văn hóa - tâm linh nổi tiếng cả nước, như các lễ hội Bạch Đằng, đền Cửa Ông, chùa Long Tiên, Thập Cửu Tiên Công, Trà Cổ, Quan Lạn, Yên Tử…, cùng nhiều lễ hội mới được xây dựng thành sản phẩm văn hóa thường niên, như lễ hội carnaval Hạ Long, lễ hội hoa anh đào - mai vàng Yên Tử, lễ hội hoa sở, lễ hội trà hoa vàng... Gắn với các lễ hội truyền thống là các trò chơi dân gian, các loại hình văn hóa, văn nghệ truyền thống, trang phục, tri thức dân gian về lâm - nông - ngư nghiệp, tri thức về chinh phục, khai thác biển - đảo, văn hóa ẩm thực truyền thống… Đó là những nguồn lực quan trọng để Quảng Ninh khai thác và phát triển các ngành kinh tế biển, trong đó có du lịch.

Trên cơ sở xác định lợi thế so sánh trong phát triển kinh tế biển, ngày 23-4-2019, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TU “Về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó xác định kinh tế biển là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn đến năm 2030, hướng tới mục tiêu xây dựng tỉnh Quảng Ninh phát triển trở thành một trong các trung tâm kinh tế biển mạnh của cả nước, là cửa ngõ, động lực phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gắn với hệ thống cảng biển nước sâu; trọng tâm là các địa phương Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái, Quảng Yên, Vân Đồn, Cô Tô, Hải Hà gắn với các ngành kinh tế biển; trở thành trung tâm du lịch. Nghị quyết số 17-NQ/TU, ngày 30-10-2023, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh “Về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững” nhấn mạnh thiên nhiên, văn hóa và con người là ba trụ cột để phát triển theo hướng bền vững. Trên cơ sở đó, Quảng Ninh đã có nhiều chính sách thu hút đầu tư và phát triển du lịch địa phương theo hướng bền vững, có sự gắn kết hài hòa các nguồn lực tự nhiên và văn hóa; phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng phục vụ du lịch biển - yếu tố nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng bền vững, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ du lịch; hoàn thiện các tuyến đường giao thông huyết mạch, đường cao tốc, đường biển và đường hàng không; quy hoạch điểm đón khách du lịch bằng đường biển, đường hàng không thuận lợi, như điểm đón du khách Cảng Tuần Châu, Cảng hàng không Vân Đồn. Hệ thống các bến, cảng khách trên các tuyến đảo đã hoàn thiện đồng bộ thúc đẩy hệ thống tàu du lịch trên vịnh Hạ Long, Vân Đồn, Cô Tô ngày càng phát triển theo hướng hiện đại, an toàn, chất lượng cao. Các dự án hạ tầng lớn, như tuyến cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, các bến du thuyền cao cấp, khu nghỉ dưỡng ven biển, như FLC Hạ Long, Vinpearl Hạ Long, Premier Village Hạ Long Bay…, đã góp phần hoàn thiện hệ sinh thái du lịch biển, nâng cao khả năng tiếp cận và thu hút du khách. Tỉnh cũng phát triển hệ thống doanh nghiệp lữ hành, nhà hàng, dịch vụ khách sạn với nhiều phân khúc để phục vụ nhu cầu đa dạng của đông đảo khách du lịch trong nước và quốc tế. Cụ thể, tính đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 218 cơ sở lưu trú ven biển đáp ứng tiêu chuẩn; hàng trăm khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 1 đến 5 sao; nhiều tàu thủy lưu trú du lịch. Tỉnh tiếp tục mở rộng không gian phát triển du lịch biển theo 4 vùng, trong đó vịnh Hạ Long - Bái Tử Long là cụm du lịch biển chủ đạo.

Đặc biệt, tỉnh Quảng Ninh chú trọng phát triển các sản phẩm du lịch biển, đảo tại Vân Đồn, Cô Tô, Móng Cái và kết nối với hệ thống khu, tuyến, điểm du lịch, đô thị du lịch hấp dẫn; triển khai 21 tuyến hành trình tham quan trên vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long; phát triển các sản phẩm, loại hình du lịch chất lượng, đặc sắc, đa dạng, có giá trị tăng cao về du lịch biển đảo, như Quần thể công viên Sun World Hạ Long Park, khu nghỉ dưỡng Vinpearl, FLC, suối khoáng Yoko Osen Quang Hanh, Cụm công trình Bảo tàng - Thư viện tỉnh, sản phẩm “Phố đêm du thuyền” tham quan ven bờ vịnh Hạ Long tại Cảng tàu quốc tế Hạ Long... Đây là những sản phẩm du lịch đã tạo nên thương hiệu nổi bật, góp phần kéo dài thời gian trải nghiệm, lưu trú và tăng chi tiêu của khách du lịch. Tính đến năm 2024, toàn tỉnh có khoảng 62 sản phẩm du lịch, trong đó vừa có sản phẩm về tham quan, nghỉ dưỡng, vừa trải nghiệm và sinh thái biển, như lặn ngắm san hô, chèo thuyền kayak, câu mực đêm, khám phá đảo hoang, du lịch làng chài, tour văn hóa biển đảo… Những sản phẩm này vừa gia tăng giá trị khai thác tài nguyên biển, vừa phù hợp với xu thế du lịch xanh và thân thiện với môi trường, góp phần phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các sự kiện văn hóa biển, như Festival Hạ Long, lễ hội ẩm thực Cô Tô, đua thuyền truyền thống Quan Lạn… cũng góp phần hiệu quả trong việc quảng bá thương hiệu du lịch biển hiệu quả, tạo động lực phát triển các ngành thủ công mỹ nghệ, ẩm thực, vận tải du lịch và truyền thông địa phương. Cùng với đó, hoạt động thông tin xúc tiến, quảng bá du lịch cũng được tỉnh triển khai một cách đồng bộ, hiệu quả, với nhiều hình thức đa dạng phong phú, như xây dựng các ấn phẩm quảng bá du lịch Quảng Ninh phục vụ các chương trình hội nghị, hội thảo xúc tiến du lịch trong và ngoài tỉnh; tăng cường việc ứng dụng các phương tiện công nghệ thông tin để quảng bá, giới thiệu hình ảnh, sản phẩm du lịch của các địa phương…

Nhờ đó, lượng khách du lịch đến với Quảng Ninh ngày càng tăng. Theo báo cáo của Sở Du lịch tỉnh Quảng Ninh, trong năm 2024, tỉnh đón khoảng 19 triệu lượt khách du lịch, trong đó có khoảng 3,8 triệu lượt khách quốc tế, tăng 76,7% so cùng kỳ năm 2023; doanh thu từ du lịch đạt khoảng 46.550 tỷ đồng, tăng 39,3% so với năm 2023. Thị trường khách quốc tế đến Quảng Ninh ngày càng mở rộng với mức chi tiêu ngày càng cao, như  Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Pháp, Đức, Ấn Độ, Australia… Quảng Ninh đang trở thành một “điểm đến trung tâm” trong bản đồ du lịch biển Đông Á.

2- Có thể thấy, phát triển du lịch biển Quảng Ninh có những đóng góp quan trọng trong việc bảo đảm sinh kế cho cư dân vùng biển, đảo Quảng Ninh. Du lịch tạo thêm nhiều việc làm, qua đó mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân địa phương với nhiều ngành, nghề như hướng dẫn viên du lịch, kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn, homestay, thủ công mỹ nghệ, dịch vụ vận tải… Phát triển du lịch biển, đảo cũng giúp cải thiện kết cấu hạ tầng ở nhiều địa phương ven biển, hải đảo, cải thiện giao thông, điện, nước, hệ thống vệ sinh và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho du khách và cư dân, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng cư dân biển, đảo, đồng thời tạo ra ý thức cộng đồng trong việc gìn giữ di sản và môi trường biển, đảo.

Tuy nhiên, du lịch biển của Quảng Ninh vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, chưa tạo được sự chuyển biến lớn trong cơ cấu kinh tế. So với quy mô nền kinh tế tỉnh (GRDP năm 2024 đạt trên 250.000 tỷ đồng), tỷ trọng ngành du lịch, dịch vụ còn khiêm tốn với khoảng 33,4%, chưa tạo ra đột phá mạnh mẽ để trở thành trụ cột chính. Hạ tầng du lịch biển ở nhiều khu vực có tiềm năng nhưng thiếu lợi thế so sánh, như Ngọc Vừng, Vĩnh Thực… vẫn chưa được đầu tư thỏa đáng, dẫn đến sự mất cân đối trong phân bổ nguồn lực, tăng áp lực lên các trung tâm du lịch biển hiện hữu, đồng thời bỏ lỡ cơ hội phát triển đồng đều trên toàn tuyến ven biển, hạn chế khả năng mở rộng không gian kinh tế biển theo hướng bền vững. Còn tình trạng lấn chiếm đất biển, xây dựng trái phép tại các đảo và vùng đệm ven biển. Sự phát triển du lịch tạo ra sức ép rất lớn đến môi trường. Tốc độ phát triển du lịch một cách thiếu kiểm soát ở một số địa phương trong khi ở một số khu nghỉ dưỡng ven biển chưa xây dựng hệ thống xử lý chất thải và nước thải chuyên nghiệp dẫn đến việc nước thải chưa qua xử lý vẫn xả trực tiếp ra biển, gây ô nhiễm môi trường biển. Sự phát triển ồ ạt của các dự án ven biển đã và đang khiến quy hoạch du lịch biển bị phá vỡ, tăng nguy cơ xói mòn đường bờ biển và làm suy thoái hệ sinh thái biển, đảo...

Chính vì vậy, để khắc phục những hạn chế trên, hướng tới bảo đảm sự phát triển bền vững du lịch biển, góp phần bảo đảm sinh kế cho người dân vùng biển, đảo, tỉnh Quảng Ninh, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, tăng cường các hoạt động thông tin truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của chính quyền và nhân dân về vị trí, vai trò của kinh tế biển nói chung và phát triển du lịch nói riêng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần bảo đảm sinh kế cho cư dân vùng biển, đảo của địa phương. Đồng thời cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục người dân và du khách về ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường trong quá trình tham gia các hoạt động du lịch biển, hướng tới sự phát triển bền vững.

Hai là, xây dựng và hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch biển tỉnh Quảng Ninh theo hướng bền vững, gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế biển quốc gia, bảo đảm tính tích hợp liên ngành, liên vùng với tầm nhìn dài hạn và chiến lược; trong đó xác định rõ các vùng phát triển ưu tiên, như Vịnh Hạ Long - Tuần Châu, Cô Tô, Vân Đồn, Móng Cái…, để tập trung nguồn lực đầu tư theo hướng hợp tác công - tư, tránh tình trạng phát triển dàn trải, manh mún, lãng phí.

Ba là, phát triển các sản phẩm du lịch có hàm lượng tri thức, công nghệ và văn hóa cao, như du lịch trải nghiệm, du lịch sinh thái, du lịch chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, du lịch học đường về biển, đảo nhằm kết hợp khai thác kinh tế với giáo dục và bảo tồn biển. Phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng với các hoạt động như tham quan rừng ngập mặn, đảo và trải nghiệm đời sống văn hóa của các cộng đồng ven biển. Khuyến khích liên kết du lịch biển với các ngành khác, như thủ công mỹ nghệ, công nghiệp văn hóa, logistics biển nhằm phát triển đa ngành và giảm rủi ro phụ thuộc vào mô hình du lịch truyền thống.

Bốn là, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường du lịch; áp dụng cơ chế định giá dịch vụ hệ sinh thái biển; thiết lập quỹ bảo vệ môi trường biển từ nguồn thu du lịch, triển khai các mô hình thuế môi trường du lịch, phí vào đảo, hoặc ưu đãi cho doanh nghiệp đạt chuẩn xanh. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và giám sát môi trường biển, xử lý nghiêm các hành vi xả thải trái phép, lấn biển không phép, và vi phạm quy hoạch vùng bờ. Xây dựng chiến lược về bảo vệ môi trường ở các khu du lịch có kế hoạch cụ thể cho việc trồng và bảo vệ cây xanh ở những khu du lịch. Quản lý hiệu quả hạ tầng và môi trường ở những khu du lịch; khuyến khích, hướng dẫn người dân và các cơ sở dịch vụ du lịch thực hiện thu gom rác một cách khoa học. Có kế hoạch bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa trong vùng gắn với bảo tồn và khai thác vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên. Áp dụng công nghệ xanh để xử lý rác thải, tiết kiệm năng lượng và nước, sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường. Có hệ thống giám sát liên tục để đánh giá tác động môi trường, quản lý chất lượng không khí, nước và các hệ sinh thái biển.

Năm là, chú trọng đầu tư nguồn nhân lực trong ngành du lịch biển theo hướng chính quy, chuyên nghiệp. Xây dựng hệ sinh thái đào tạo và sử dụng nhân lực du lịch biển, gồm đào tạo nghề cho lao động ven biển, nâng cao trình độ quản trị du lịch biển, kỹ năng ngoại ngữ, ứng xử văn hóa và kiến thức về môi trường biển, qua đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành du lịch biển, đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Sáu là, xây dựng cơ chế phối hợp và phân chia nguồn lợi từ du lịch biển Quảng Ninh. Xây dựng các mô hình quản trị đồng thuận trong du lịch biển, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Cơ chế phân phối lợi ích nên gắn với chỉ số môi trường - xã hội - quản trị của doanh nghiệp (ESG); đồng thời, có chính sách hỗ trợ các cộng đồng địa phương, đặc biệt là ngư dân chuyển đổi ngành, nghề, tham gia dịch vụ du lịch biển. Có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào du lịch. Triển khai các chương trình giáo dục công dân biển, nâng cao nhận thức về vai trò chủ thể của người dân trong bảo vệ môi trường, gìn giữ văn hóa biển và phát triển du lịch có trách nhiệm. Tạo điều kiện cho cộng đồng cư dân vùng biển, đảo Quảng Ninh tham gia hoạch định chính sách, giám sát thực hiện; khuyến khích người dân tự nguyện tham gia hoạt động du lịch một cách sáng tạo, được hưởng lợi từ phát triển du lịch, góp phần xóa đói, giảm nghèo đa chiều bền vững, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm sinh kế bền vững./.