Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, tạo động lực góp phần phát triển nhanh, bền vững đất nước - Từ thực tiễn tại tỉnh Ninh Bình
TCCS - Di sản không chỉ có giá trị tinh thần mà còn trở thành của cải vật chất, gắn liền với sinh kế của cộng đồng dân cư. Việc ghi danh các di sản không chỉ làm cho cộng đồng nhận diện, tự hào về các giá trị di sản của mình, mà còn góp phần cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân. Nhận thức rõ ý nghĩa, nhiệm vụ quan trọng này, trong những năm qua, tỉnh Ninh Bình đặc biệt quan tâm đến công tác đầu tư nghiên cứu, phục dựng, bảo tồn các giá trị di sản văn hóa.
Hiện nay, văn hóa ngày càng được xem là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, có mối gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội; hơn nữa, văn hóa còn được xác định là sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Những năm gần đây, dù trong bối cảnh toàn cầu hóa, thế giới hội nhập nhanh, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia - dân tộc diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sự xuất hiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thì Việt Nam cũng như các quốc gia khác sẽ tiếp tục phát huy các giá trị văn hóa đã được dân tộc mình tích lũy, lưu giữ lại trong lịch sử của dân tộc. Các giá trị, di sản văn hóa truyền thống trong quá khứ vẫn là hành trang, điểm tựa quan trọng cho phát triển đất nước, cả trong hiện tại và hành trình đi đến tương lai. Tuy nhiên, thực tế cũng chứng tỏ rằng, không một quốc gia nào chỉ cần và chỉ có thể dựa vào mỗi quá khứ hay giá trị truyền thống để tồn tại và phát triển. Các giá trị văn hóa truyền thống cần được gìn giữ, chưng cất, gạn lọc, nhưng chúng phải được phát huy, thăng hoa trong tương lai với tư cách là điểm tựa tinh thần cho văn hóa và con người Việt Nam đương đại. Theo nghĩa ấy, văn hóa phải trở thành sức mạnh nội sinh và động lực quan trọng cho tinh thần sáng tạo, đổi mới, tạo nguồn lực bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Đảng ta tiếp tục coi phát triển văn hóa vừa là sức mạnh nội sinh, vừa là động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc
Đảng ta xác định văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển, là nguồn lực nội sinh. Với tinh thần đó, Đại hội XIII tiếp tục khẳng định quan điểm “phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần”, coi trọng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế, coi trọng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Văn hóa gắn với con người, do con người sáng tạo ra, nên Đại hội XIII khi đề cập đến quan điểm về văn hóa đều luôn nhấn mạnh đến việc phát huy vai trò con người, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.
Trong Văn kiện Ðại hội XIII của Ðảng, vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa, con người được xác định là một trong các định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”(1). Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam được xác định vừa là nhiệm vụ trọng tâm, vừa là khâu đột phá có ý nghĩa chiến lược để đẩy mạnh quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời gian tới.
Như vậy, Đảng ta nhấn mạnh phát triển văn hóa với tư cách là sức mạnh nội sinh và động lực cho sự phát triển. Nhìn chung, động lực là nhân tố thúc đẩy sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Một xã hội, một tổ chức hay một con người nếu không có động lực hoạt động thì sẽ rơi vào trạng thái trì trệ, cầm chừng, thậm chí là suy thoái, tan rã. Động lực có nhiều loại, như động lực vật chất, động lực tinh thần; động lực cá nhân, động lực tập thể, có động lực làm chuyển biến cả một dân tộc; động lực bên trong, động lực bên ngoài... Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng vai trò của việc nhận thức và phát huy các động lực trong tiến trình cách mạng. Kế thừa và bổ sung những nhân tố tạo thành động lực của văn kiện Đại hội XII, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định trong số những động lực, các giá trị văn hóa đóng vai trò hết sức quan trọng để phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, góp phần tạo động lực cho quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững trong bối cảnh mới
Trong bối cảnh hiện nay, sức mạnh kinh tế không còn là yếu tố mạnh nhất chi phối quyền lực quốc gia, mà “quyền lực mềm” quốc gia gắn với sức mạnh văn hóa nói chung, trong đó có giá trị di sản văn hóa, ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi nước. Thực tế cũng đã cho thấy, chỉ khi quốc gia - dân tộc phát triển dựa trên nền tảng bản sắc văn hóa truyền thống có tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại thì mới bảo đảm các yếu tố cần thiết cho phát triển bền vững trong bối cảnh mới. Nếu đánh mất bản sắc văn hóa hoặc chỉ dựa trên những trào lưu văn hóa du nhập, vay mượn hoặc sùng bái văn hóa ngoại lai thì một dân tộc thậm chí có thể sẽ biến mất, chứ chưa nói tới sự phát triển bền vững.
Khái niệm “phát triển bền vững” lần đầu được đưa ra năm 1987 và trở thành quan điểm tiếp cận trong xây dựng và thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Thành phần cơ bản tạo nên hệ thống phát triển bền vững là phát triển bền vững về mặt kinh tế, chính trị, xã hội và phát triển bền vững về mặt môi trường. Song, muốn phát triển bền vững, không thể bỏ qua yếu tố văn hóa; chính vì vậy, từ nhiều năm trước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; trong đó, cần chú trọng giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tạo động lực phát triển trong bối cảnh mới.
Di sản văn hóa là tài sản vô giá, vừa là “chất keo” kết dính, gắn kết cộng đồng dân tộc, vừa tạo nên “hồn cốt” của bản sắc dân tộc; do vậy, đóng vai trò là nguồn lực đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, giá trị di sản văn hóa còn tạo dựng nền tảng tinh thần, là yếu tố nội sinh, là động lực thúc đẩy công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương. Chính vì vậy, ngày 24-11-2021, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kếp hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại”(2). Quán triệt tinh thần, quan điểm đó, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội là chủ trương lớn, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta.
Bảo tồn giá trị di sản văn hóa là nhằm thực hiện chức năng giáo dục của văn hóa, đáp ứng yêu cầu xây dựng và vun đắp tư tưởng, đạo đức, lối sống nhân văn và đào tạo nguồn nhân lực để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Các giá trị văn hóa được tích hợp và “kết tinh” vào trong các loại hình di sản văn hóa, như di sản văn hóa vật thể, di sản văn hóa phi vật thể; góp phần tạo dựng môi trường xã hội lành mạnh và có văn hóa, sự ổn định xã hội và vì vậy, nếu được phát huy tốt sẽ phục vụ đắc lực cho phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Theo Luật Di sản văn hóa, di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Kho tàng di sản văn hóa dân tộc phong phú và đa dạng. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vì mục tiêu phát triển bền vững là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần thiết thực chấn hưng văn hóa dân tộc, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Do đó, đối với chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đặc biệt nhấn mạnh, đây chính là tài sản vô cùng quý báu do tổ tiên, cha ông ta mấy nghìn năm để lại, không phải nước nào cũng có được và chúng ta phải có trách nhiệm trân trọng, gìn giữ và phát huy.
Di sản văn hóa được coi là loại “tài nguyên nhân văn” quan trọng để phát triển ngành công nghiệp văn hóa, hướng đến vừa thoả mãn nhu cầu hưởng thụ về văn hóa, tinh thần lành mạnh, ngày càng cao của con người; đồng thời, vừa có thể tạo nguồn thu khá lớn đóng góp vào tổng thu nhập quốc gia hằng năm. Tuy nhiên, cần có quan điểm mềm dẻo, linh hoạt về vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản. Bởi lẽ, giá trị di sản văn hóa không chỉ được coi là nguồn lực quan trọng để phát triển công nghiệp văn hóa, tạo ra những sản phẩm công nghiệp văn hóa hấp dẫn, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, mà còn góp phần quảng bá rộng rãi hình ảnh quốc gia, khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
Cộng đồng chính là người đã sáng tạo ra di sản, trao truyền di sản cho các thế hệ tiếp theo. Di sản không chỉ có giá trị tinh thần mà trở thành của cải vật chất, gắn liền với sinh kế của cộng đồng dân cư. Việc ghi danh các di sản không chỉ làm cho cộng đồng nhận diện, tự hào về các giá trị di sản của mình, mà còn góp phần cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nhiều địa phương theo hướng bền vững và bao trùm. Theo đó, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra hiện nay chính là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn, phát triển di sản văn hóa với tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Thực tế cho thấy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đó, các giá trị di sản văn hóa được nhận diện, bảo tồn và phát huy đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục lịch sử, vun đắp truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần giáo dục con người Việt Nam nói chung, phát triển nguồn nhân lực nói riêng trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Với nỗ lực của mình, năm 2022, Việt Nam được bầu vào Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể nhiệm kỳ 2022 - 2026. Đặc biệt, Việt Nam đã thu hút được nguồn lực quốc tế đáng kể cho hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di sản thông qua nhiều dự án, chương trình hợp tác với các tổ chức, các quốc gia khác nhau trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã được UNESCO ghi danh 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 15 di sản văn hóa phi vật thể, 9 di sản tư liệu, 3 công viên địa chất toàn cầu và 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới. Vấn đề đặt ra cấp thiết hiện nay chính là cần phải làm gì và làm như thế nào để khai thác có hiệu quả các giá trị di sản của UNESCO để phát triển nhanh, bền vững.
Tỉnh Ninh Bình chú trọng công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, góp phần phát triển nhanh, bền vững trong bối cảnh mới
Trong những năm qua, công tác bảo tồn, nghiên cứu, phục dựng các di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch luôn được tỉnh Ninh Bình đặc biệt quan tâm, chú trọng. Các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể được cư dân sáng tạo, gìn giữ, lưu truyền và phát triển qua nhiều thế hệ, như: Văn hóa lúa nước, văn hóa làng xã với sự gắn kết và xây dựng tinh thần cộng đồng, các lễ hội và tín ngưỡng, các loại hình nghệ thuật dân gian; các công trình kiến trúc, tiêu biểu như cố đô Hoa Lư - nơi đặt nền móng cho một nhà nước phong kiến tập quyền đầy đủ đầu tiên, Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An… Đây chính là nguồn lực, nguồn tài nguyên vô giá để Ninh Bình phát triển du lịch, trở thành điểm đến du lịch hàng đầu Việt Nam. Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình đã ban hành Nghị quyết 105 quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển du lịch, trong đó có nội dung hỗ trợ người dân trong vùng di sản bảo tồn các nếp nhà truyền thống, xây dựng nhà theo kiểu dáng kiến trúc truyền thống, xây dựng homestay. Qua đó, tỉnh thúc đẩy chính sách “sống trong di sản, bảo vệ di sản và hưởng lợi từ di sản”; đồng thời, phát triển các sản phẩm du lịch có hàm lượng văn hóa cao, mang đặc trưng riêng có của vùng đất cố đô và di sản thế giới Tràng An.
Đối với tỉnh Ninh Bình, kể từ khi Tràng An được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới vào năm 2014, nơi đây đã trở thành một điểm sáng trên bản đồ du lịch Việt Nam và mang lại nguồn lợi lớn cho địa phương. Quần thể danh thắng Tràng An đã tạo cơ hội và động lực để Ninh Bình thực hiện mô hình phát triển gắn kết hài hòa giữa bảo tồn di sản và tăng trưởng xanh, hội nhập vào mạng lưới các đô thị di sản sở hữu danh hiệu UNESCO trên thế giới. Danh hiệu di sản thế giới đã tác động tích cực đến quá trình phát triển của tỉnh Ninh Bình theo hướng bền vững với mô hình kinh tế chuyển dịch từ “nâu” sang “xanh” mà trọng tâm là du lịch và dịch vụ dựa trên việc bảo vệ di sản.
Danh hiệu di sản thế giới đóng vai trò như “viên ngọc quý” để thu hút du khách. Song, việc bảo đảm hài hòa giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản để phát triển du lịch nhưng vẫn giữ được tính xác thực và tính toàn vẹn của di sản thế giới là rất quan trọng. Ðiều này chỉ có được khi tất cả các bên liên quan (Nhà nước, khu vực tư nhân và cộng đồng cư dân địa phương) đồng lòng tham gia. Ninh Bình đã lựa chọn mô hình quản lý bảo tồn nguyên vẹn, bền vững các giá trị của di sản và phát huy các giá trị đó vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, tạo sinh kế bền vững cho người dân. Mô hình cũng góp phần tích cực trong bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể, như đưa nghệ thuật hát xẩm, múa rối nước vào phục vụ du khách tại các điểm, tuyến tham quan; tăng cường quảng bá ẩm thực; đẩy mạnh hình thức du lịch làng nghề nhằm tạo lợi thế để thu hút du khách.
Nhằm phát triển du lịch hiệu quả gắn với bảo tồn bền vững các giá trị di sản văn hóa, tỉnh Ninh Bình đặc biệt chú trọng bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống của dân tộc, của vùng đất cố đô Hoa Lư. Trong đó, tỉnh đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, thông tin tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và của người dân, doanh nghiệp về vai trò, tầm quan trọng và những lợi ích mà di sản mang lại, biến di sản thành tài sản; đa dạng hóa công tác thông tin, tuyên truyền, xây dựng các hình thức tuyên truyền phù hợp với nhận thức của người dân; để từ đó, có những hành động đúng đắn để bảo vệ và phát huy giá trị di sản. Trong 6 tháng đầu năm 2023, các khu, điểm du lịch trên địa bàn Ninh Bình đã đón 4,53 triệu lượt khách, tăng gấp 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2022; doanh thu ước đạt hơn 3.846 tỷ đồng, gấp 2,94 lần so với cùng kỳ năm 2022. Nhờ khai thác hiệu quả du lịch văn hóa mà trọng tâm là Quần thể danh thắng Tràng An, năm 2022, Ninh Bình là một trong 14 tỉnh, thành phố trên cả nước tự cân đối ngân sách và thực hiện điều tiết ngân sách về Trung ương là 9%(3). Ninh Bình đã vận dụng linh hoạt mô hình hợp tác công - tư, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa các chủ thể: chính quyền - cộng đồng - doanh nghiệp. Mỗi chủ thể khi tham gia đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm riêng. Việc xã hội hóa trong phát huy các giá trị của Tràng An được thực hiện trên nền tảng sự liên kết, phối hợp của 4 chủ thể là: Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và người dân.
Các mục tiêu phát triển bền vững của Ninh Bình luôn đặt con người là trung tâm, là mục tiêu cho phát triển. Từ năm 2014 đến nay, các cơ quan chuyên ngành đã tổ chức 65 lớp tập huấn cho gần 9.000 người dân trong khu di sản; công tác bảo tồn di sản gắn với phát triển du lịch bền vững tạo thêm sinh kế mới cho người dân trong vùng được chú trọng(4).
Một số giải pháp tăng cường bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, góp phần phát triển nhanh, bền vững - Qua thực tiễn của tỉnh Ninh Bình
Từ thực tiễn bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa tại tỉnh Ninh Bình, có thể thấy, để phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế quản lý di sản tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản. Đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, thông tin tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và của người dân và doanh nghiệp về vai trò, tầm quan trọng và những lợi ích mà di sản mang lại, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, biến di sản thành tài sản; đa dạng hóa công tác thông tin, tuyên truyền, xây dựng các hình thức tuyên truyền phù hợp với nhận thức của người dân để từ đó, có những hành động đúng đắn bảo vệ và phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch bền vững, xây dựng môi trường du lịch văn minh, thân thiện.
Thứ hai, tăng cường thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Trong đó dành nguồn lực thích hợp từ ngân sách nhà nước đầu tư hình thành các khu vực động lực phát triển du lịch, khu du lịch quốc gia, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật tại các khu du lịch trọng điểm; xây dựng các công trình mang đậm dấu ấn lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư, Quần thể danh thắng Tràng An.
Thứ ba, tăng cường xúc tiến, quảng bá và phát triển thương hiệu du lịch gắn với các giá trị văn hóa lịch sử, di sản. Xây dựng và thực hiện chiến lược xúc tiến, quảng bá du lịch theo hướng dài hạn, chuyên nghiệp và hiệu quả; bảo đảm đồng bộ từ khâu nghiên cứu thị trường, xây dựng sản phẩm đến xây dựng bộ nhận diện thương hiệu, tổ chức các chương trình, hoạt động xúc tiến, quảng bá thương hiệu điểm đến du lịch.
Thứ tư, xây dựng chiến lược dài hạn về đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch và bảo tồn, phát huy các giá trị di sản, trong đó tập trung đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, phát triển du lịch; đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp cho đội ngũ cán bộ, nhân viên trực tiếp tiếp xúc với khách du lịch; thu hút lao động có kỹ năng, trình độ quản lý, đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề, ngoại ngữ, ý thức, đạo đức nghề nghiệp, văn hóa giao tiếp.
Thứ năm, hoàn thiện chính sách về công tác trùng tu, tôn tạo di tích, bảo tồn di sản linh hoạt, hiệu quả, có tầm nhìn và tư duy chiến lược. Cần triển khai chi tiết quy hoạch bảo tồn không gian di tích lịch sử - văn hóa, gắn kết hài hòa giữa không gian văn hóa, bản sắc kiến trúc, cảnh quan môi trường, tạo nên giá trị tổng hòa, đặc sắc. Tăng cường đầu tư từ các nguồn vốn, trong đó chú trọng xã hội hóa nguồn lực cho hoạt động bảo tồn, tôn tạo di sản; chủ động phân cấp quản lý di sản cho chính quyền và cộng đồng dân cư phù hợp với thực tiễn, điều kiện, nguồn lực của địa phương.
Thứ sáu, đẩy mạnh thu hút đầu tư cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng chuỗi sản phẩm du lịch, sản phẩm thương mại mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng dịch vụ, đón tiếp khách du lịch tại các di sản thế giới, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh có giá trị đặc sắc; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc đón tiếp, thuyết minh, tạo điều kiện thuận lợi và sự thoải mái cho khách du lịch, tham quan di sản; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, hoạt động trải nghiệm cho người dân, du khách.
Thứ bảy, tăng cường thông tin quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; giới thiệu cơ hội đầu tư, tiềm năng hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch địa phương với bạn bè, đối tác quốc tế. Giới thiệu chuyên gia, chia sẻ kinh nghiệm thực hành, tổ chức các hoạt động trưng bày, triển lãm, tăng cường giao lưu, xúc tiến chéo trong các hoạt động quảng bá giá trị di sản văn hóa dân tộc tại các không gian sáng tạo văn hóa nổi tiếng trên thế giới./.
--------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 115 - 116
(2) Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979 (tháng 12-2021)
(3) Xem: Bài viết “Khai thác các giá trị di sản thế giới tại Việt Nam để phát triển bền vững” tại trang Web: https://www.qdnd.vn/van-hoa/doi-song/khai-thac-cac-gia-tri-di-san-the-gioi-tai-viet-nam-de-phat-trien-ben-vung-735103
(4) Xem: Bài viết “Khai thác các giá trị di sản thế giới tại Việt Nam để phát triển bền vững”, Tlđd
Làng nghề Sinh Dược (tỉnh Ninh Bình) phát huy thế mạnh nghề truyền thống phát triển kinh tế quê hương  (02/12/2024)
Tỉnh Ninh Bình: Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa theo tinh thần của Luật Di sản văn hóa  (29/11/2024)
Làng nghề mộc Phúc Lộc - nơi lưu giữ tinh hoa nghề mộc Ninh Bình  (28/11/2024)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay